Thứ hai, 08 Tháng 7 2019 09:44 Số truy cập:4865
Ngày 26/5/2009, tại đảo Jeju - Hàn Quốc, Ủy ban điều phối quốc tế Chương trình Con người và Sinh quyển thế giới (MAB) của UNESCO đã chính thức công nhận Cù Lao Chàm – Hội An trở thành Khu dự trữ sinh quyển thế giới thứ 8 của Việt Nam, hòa vào mạng lưới 686 Khu dự trữ sinh quyển thế giới tại 122 quốc gia tính đến năm 2019. Có thể nói, đây là sự ghi nhận của cộng đồng quốc tế về những nỗ lực vượt bậc của người dân, chính quyền, các nhà khoa học, lực lượng doanh nghiệp và sự hỗ trợ từ các tổ chức quốc tế trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên nhân văn - là tài sản của địa phương nhưng mang tầm ý nghĩa toàn cầu. Sau 10 năm vận hành với nhiều khó khăn, thách thức từ thiên nhiên và con người, Khu dự trữ sinh quyển thế giới Cù Lao Chàm – Hội An không những đáp ứng được các yêu cầu của UNESCO thông qua 7 tiêu chí, thực hiện tốt 3 chức năng của một Khu sinh quyển thế giới mà danh hiệu này còn hỗ trợ đắc lực cho thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam trong việc thu hút du khách thập phương, phát triển sinh kế người dân, góp phần cụ thể hóa mục tiêu xây dựng thành phố Hội An theo định hướng Sinh thái – Văn hóa – Du lịch và thích ứng với biến đổi khí hậu.
Giá trị nổi trội của Khu dự trữ sinh quyển thế giới Cù Lao Chàm – Hội An:Tài sản của địa phương nhưng mang tầm ý nghĩa toàn cầu
Trải dài từ phố cổ Hội An - vùng hạ lưu sông Thu Bồn, qua hệ thống kênh rạch tự nhiên, các bãi biển đến tận hải đảo, Khu dự trữ sinh quyển thế giới Cù Lao Chàm – Hội An (KSQ) có đại diện đầy đủ các kiểu hệ hệ sinh thái tự nhiên đặc trưng vùng ven bờ như: Hệ sinh thái (HST) rạn san hô; HST thảm cỏ biển, HST thảm rong biển, HST rừng ngập mặn (chủ yếu là rừng dừa nước); HST vùng cửa sông; HST đất ngập nước; HST vùng triều bờ đá; HST bãi biển, HST rừng thường xanh nhiệt đới...vv. Các HST này được trải dài dọc theo các nhánh sông, vùng ven biển ra đến quần đảo Cù Lao Chàm đã bao bọc lấy Hội An, mang lại cho vùng đất này sự giàu có về tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên nhân văn, tạo ra các dịch vụ sinh thái, là tiền đề thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội địa phương. Những giá trị độc đáo và đặc trưng nhất của KSQ được coi là tài sản của địa phương nhưng mang tầm ý nghĩa toàn cầu đó là: Khu Phố cổ Hội An - Di sản văn hóa (UNESCO công nhận năm 1999); Rừng nguyên sinh trên đảo Cù Lao Chàm (được công nhận rừng đặc dụng từ năm 2018); Rừng dừa nước hạ lưu sông Thu Bồn (được công nhận rừng phòng hộ năm 2018); Các làng quê sinh thái Cẩm Thanh, Cẩm Kim, xã đảo Tân Hiệp; Khu Bảo tồn Biển Cù Lao Chàm (thành lập năm 2003, thuộc hệ thống các KBTB quốc gia); Các làng nghề truyền thống (mộc Kim Bồng, gốm Thanh Hà, Tre-dừa Cẩm Thanh, rau Trà Quế, Yến Sào Cù Lao Chàm…vv)…vv. Tất cả đã tạo nên một Hội An với đặc điểm lịch sử và địa lý nhân văn hết sức riêng biệt mà không nơi nào có thể sánh được. Với lịch sử lâu đời, Hội An chính là nơi gặp gỡ, giao thoa của nhiều nền văn hóa lớn trên thế giới, các học giả cho rằng: “Hội An chính là hội thủy – hội nhân” [10]. Thành phố nhỏ bé bên bờ sông Hoài, trông ra biển khơi với quần đảo Cù Lao Chàm án ngữ cửa ngõ phía Đông, địa danh còn nổi tiếng thời vương quốc Cham-Pa trước cả cảng thị Hội An, đây là điểm dừng chân quan trọng của thương thuyền quốc tế, điểm kết nối giữa “con đường tơ lụa” và “con đường gốm sứ” nổi tiếng trong lịch sử hàng hải thế giới [6]. Có thể nói, Hội An là một biểu hiện vật thể nổi bật của sự kết hợp các nền văn hóa qua các thời kỳ của một thường cảng quốc tế đặc trưng của vùng Đông Nam Á và các giá trị ấy được bảo tồn một cách nguyên vẹn, chu đáo cho đến ngày nay.
Hình 1: Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan chuyển trao bằng công nhận KSQ cho tỉnh Quảng Nam và thành phố Hội An
Đặc biệt, nhìn từ lịch sử hình thành cảng thị Hội An sầm uất thế kỷ XV-XIX, trải qua bao nhiêu giai đoạn, chứng kiến bao nhiêu sự thay đổi, thành phố có lúc phát triển phồn thịnh, rực rỡ, có lúc thoái trào, suy vong nhưng một điều bất biến đó là người dân luôn nương tựa vào thiên nhiên để làm ăn sinh sống, định hướng chiến lược của thành phố từ ngàn xưa cho đến bây giờ luôn phát triển dựa trên nền tảng kiến tạo tự nhiên - món quà vô giá thiên nhiên đã ưu ái ban tặng và được các bậc tiền nhân dày công gìn giữ để bây giờ nó là tài sản của địa phương nhưng mang tầm ý nghĩa toàn cầu. Chính từ lẽ đó, KSQ được UNESCO đánh giá là một minh chứng điển hình, rõ nét về sự giao thoa, hòa quyện giữa con người với thiên nhiên, đúng như tôn chỉ của UNESCO thông qua tên gọi Ủy ban Con người và Sinh quyển (Man and Biosphere – MAB) [4].
Những nỗ lực gìn giữ và phát huy giá trị nổi trội của Khu sinh quyển
Với những nỗ lực của địa phương và các bên liên quan từ chính quyền, nhà khoa học, các doanh nghiệp và cộng đồng cư dân, sau 10 năm được UNESCO công nhận, KSQ đã cơ bản hình thành bộ máy, cơ chế quản lý và điều phối các hoạt động theo cách tiếp cận quản lý tổng hợp, đa ngành nghề, đa mục tiêu; tiếp cận hệ sinh thái, lưu vực sông; tiếp cận theo mô hình tư duy hệ thống, qui hoạch cảnh quan, điều phối liên ngành, kinh tế chất lượng (Mô hình SLIQ) [4]…vv nhằm bảo tồn và phát huy tốt các giá trị đặc trưng nổi trội của KSQ, phục vụ chiến lược phát triển của địa phương và đáp ứng sự kỳ vọng của UNESCO.
Hình 2: Mô hình tiếp cận bảo tồn và phát huy giá trị KSQ [3]
Sau 10 năm, những tài sản quí giá nhất của KSQ đã được bảo tồn một cách tích cực, mang lại lợi ích cụ thể thông qua các mô hình sinh kế bền vững của người dân trước những ảnh hưởng của biến đổi khí hậu. Điều này được thể hiện qua diễn thế phân bố, sức khỏe các HST cả trên cạn và dưới nước trong KSQ trong 10 năm 2009-2019 như sau:
(1) Diễn thế các HST theo chiều hướng tích cực
Ngoài các HST cơ bản, ít biến động như HST vùng triều bờ đá, vùng triều bờ cát, diễn thế các HST quan trọng trong KSQ sau 10 năm thể hiện một sự thành công lớn trong việc hài hòa giữa bảo tồn và phát triển kinh tế xã hội của thành phố Hội An:
@ Rừng nguyên sinh Cù Lao Chàm: Theo hồ sơ đề cử KSQ (2008) tính đến năm 2006, rừng nguyên sinh Cù Lao Chàm được ghi nhận có nhiều cây gỗ quý, nhiều loài có giá trị khoa học. Từ độ cao 100m trở xuống, đã ghi nhận có 499 loài thuộc 352 chi, 115 họ của 5/6 ngành thực vật bậc cao có mạch, 1/20 tổng số loài, 1/6 tổng số chi và tổng số họ của thực vật Việt Nam. Trong đó có hơn 288 loài cây thuốc nam (Những loài dược liệu quí như Hoàng Nam, cỏ Xước, Bách Lộ, Lạc Tiên, Mã Đề và một số loài trong họ Gừng ...vv) xen lẫn trong những cánh rừng thường xanh với những cây cổ thụ như Gõ mật, Lim xanh, Dầu lôn, Chò nâu, Huỷnh, Bời lời đỏ hàng trăm năm tuổi [10].
Trong 10 năm, KSQ luôn tổ chức các nghiên cứu nhằm tiếp tục cập nhật, bổ sung dữ liệu đa dạng sinh học rừng Cù Lao Chàm. Các nghiên cứu cho đến nay (2019) đã xác định được rừng Cù Lao Chàm cũng là nơi cư trú của 12 loài thú, 13 loài chim, 130 loài bò sát và 5 loài ếch nhái, nhiều loài quý hiếm như Lan Nhung, Trầm Hương. Đặc biệt, đã phát hiện tại Cù Lao Chàm có nhiều loài trong sách đỏ của Việt Nam và IUCN. Riêng năm 2017, Cù Lao Chàm đã bổ sung 01 loài rắn mới vào danh mục của thế giới với tên khoa học Oligodon culaochamensis. Bên cạnh đó, có 6 cây quý ở Cù Lao Chàm gồm: 3 cây Cây ngô đồng đỏ; 1 cây Nánh, 1 cây Kén; 1 cây Đa đã được Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam công nhận là “Cây di sản” năm 2014 [2].
@ Rạn san hô: Kết quả khảo sát Đa dạng sinh học (ĐDSH) trong KSQ năm 2017 tích hợp nghiên cứu trước đây đã ghi nhận có 311 loài san hô, trong đó có 292 loài thuộc 23 họ san hô cứng tạo rạn phân bố trên diện tích khoảng 356 hecta. Đây là nơi ẩn nấp, bắt mồi, sinh trưởng, sinh sản để duy trì và phát triển nguồn lợi của rất nhiều loài thủy hải sản như cá, giáp xác, nhuyễn thể, da gai…vv. Thêm vào đó, có 88 loài thuộc 33 họ rong lớn, 113 loài thuộc 38 họ trong ngành thân mềm, trên 11 loài thuộc 8 giống và 7 họ dai gai kích thước lớn, 171 loài thuộc 39 họ, chiếm 64% trong tổng số 267 loài của 54 họ cá rạn [5]. Nhìn chung, giai đoạn 2009 - 2019, diện tích rạn san hô ở vùng lõi KSQ chỉ giảm khoảng 0,8 ha ở khu vực Bãi Hương do bị san lấp và phá hủy bởi công trình cầu tàu.
@ Thảm cỏ biển: Số liệu khảo sát năm 2017, có khoảng 60 ha, trong đó khu vực hạ lưu sông Thu Bồn có 43 ha và Cù Lao Chàm có 17 ha. Ở khu vực hạ lưu sông Thu Bồn, thảm cỏ biển chủ yếu tập trung ven các cồn bãi (Gò Hí) bên ngoài rừng dừa nước ở Cẩm Thanh. Diện tích thảm cỏ biển cũng bị thu hẹp theo thời gian, đáng kể nhất ở khu vực Cù Lao Chàm giảm từ khoảng 50 ha trong năm 2004 xuống 37,1 ha trong năm 2008 và 17 ha vào năm 2016 (giảm 33 ha, tương đương 66%), đặc biệt tại các khu vực Bãi Ông và Bãi Hương gần như bị vùi lấp hoàn toàn và chỉ còn một số đốm nhỏ rãi rác nên không hình thành thảm cỏ biển. Ở khu vực hạ lưu sông Thu Bồn giảm tương đối ít từ 44,6 ha trong năm 2004 và 2008 xuống còn 43 ha vào năm 2016, tức chỉ giảm 1,6 ha [5].
@ Thảm rong biển: Cùng với san hô, quần xã rong biển tại Cù Lao Chàm phân bố gần với các rạn san hô, chúng sống chủ yếu trên các tảng đá, rạn ngầm, vách đá từ vùng triều đến vùng dưới triều ở độ sâu khoảng 4m. Tại đây đã phát hiện có 76 loài rong biển kích thước lớn, phổ biến nhất là phân bố của 7 loài rong mơ, chúng bắt đầu mọc từ tháng 1 và tự tàn lụi vào tháng 7-8 [5]. Các thảm rong biển cũng là nơi trú ẩn, bắt mồi và quan trọng nhất đây chính là các giá thể để các loài thủy sản đẻ trứng, sau một thời gian trứng nở ra ấu trùng và phát triển thành con non và chúng cũng chỉ sống quanh quẩn tại các thảm rong biển trước khi vươn ra các vùng môi trường rộng lớn hơn.
@ Rừng ngập mặn hạ lưu sông Thu Bồn: Có khoảng 117 ha, tập trung chủ yếu ở rừng dừa nước của xã Cẩm Thanh (81,5 ha). Phần diện tích nói trên không gồm khoảng 26 ha rừng dừa nước mới trồng.
Hình 3: Diễn biến diện tích phân bố dừa nước tại Cẩm Thanh [9]
@ Hệ sinh thái vùng triều bờ đá: Quần đảo Cù Lao Chàm là trung tâm đa dạng sinh học không chỉ dưới biển, nơi đang sở hữu các HST rạn san hô và thảm cỏ biển mà còn cả rừng thường xanh với tính đa dạng sinh học rất cao trên các đảo. Các HST trên rừng và dưới biển không tồn tại độc lập mà giữa chúng có tương tác, ảnh hưởng lẫn nhau bằng mối liên kết sinh thái thông qua các bãi biển và vùng triều bờ đá. Nơi đây cũng chính là sinh cảnh quan trọng của các loài giáp xác và nhuyễn thể, có thể kể đến các quần thể ốc vú nàng, ốc vú sao, các loài giáp xác...vv. Đến mùa sinh sản, loài cua đá (Gecarcoidea lalandii) di cư từ các cánh rừng trên đảo đến các vùng triều bờ đá để đẻ trứng, phóng thích ấu trùng vào nước biển; với tập tính đặc biệt này, cua đá không những là tài nguyên quan trọng đối với sinh kế của người dân xã đảo mà còn là sinh vật chỉ thị cho chất lượng và mối liên kết HST rừng – biển tại đảo Cù Lao Chàm [3].
Như vậy có thể thấy, KSQ quản lý tài nguyên, cụ thể là bảo tồn các HST trên cạn và dưới nước, chính là bảo đảm, duy trì tính liên kết giữa chúng thông qua HST vùng triều bờ đá theo phương thức tiếp cận từ đỉnh núi đến rạn san hô (Ridge to Reef – 2R) để các HST này tồn tại, phát triển và cung cấp các dịch vụ HST một cách hiệu quả và bền vững.
@ Hệ sinh thái cồn nổi trên sông, ven biển: Với diện tích tự nhiên chỉ vào khoảng 61 km2 nhưng có đến 21% là diện tích các thủy vực [8], địa hình tự nhiên của thành phố Hội An bị chia cắt bởi nhiều sông rạch đã tạo nên hệ thống cồn - bàu liên tục xen kẽ nhau như Bàu Tràm, Bàu Súng, Bàu Rêu, Bàu Sấu, Bàu Ốc, Cồn Phi, Cồn Giác, Bãi Bà Mau, Cồn Bắp, hệ Cồn Nổi Cẩm Nam (cồn hến), cồn Ba Xã, Cồn Ông Hơi, Cồn Thuận Tình, gò Hí...vv. Theo kết quả khảo cổ học cho thấy các cư dân cổ qua các thời kỳ văn hóa đều dựa vào cồn - bàu ven sông để cư trú, sinh sống. Vì thế, các nhà khoa học gọi văn hóa Hội An là “Văn hóa cồn bàu” [8]. Do áp lực và nhu cầu phát triển kinh tế của thành phố, hầu hết các khu vực này đã và sẽ nằm trong khu vực các dự án đã được cấp phép. Một điều chắc chắn là tính “hoang sơ” là các giá trị đặc trưng của KSQ sẽ mất dần. Địa hình cồn bãi bị biến động, dẫn tới sự thay đổi hàng loạt các yếu tố như: lớp thổ nhưỡng, lớp phủ sinh vật, lớp trầm tích bề mặt…vv dẫn đến sự thay đổi nguồn nước và các điều kiện vi khí hậu. Đơn cử, khi các thảm thực vật bề mặt tại các bãi biển mất, diễn thể địa chất, địa mạo, thổ nhưỡng sẽ diễn ra như qui luật trên và hậu quả sẽ là giảm vai trò phòng hộ và gây nên tác động bồi lắng tại cửa sông và là một trong những tác nhân gây xói lở tại bãi biển. Trong khi đó, vòng đời của đa số các loài thủy sản có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến sự tồn tại và diễn thế của hệ thống cồn bãi tự nhiên. Sự tác động và can thiệp vào cấu trúc của hệ thống cồn bãi tự nhiên này ở mức độ như thế nào, qui mô và tính chất ra sao vẫn đang là mối quan tâm không chỉ của giới khoa học mà cũng là mối quan ngại của lãnh đạo, chính quyền và người dân Hội An.
@ Hệ sinh thái nông nghiệp: Bên cạnh việc tạo ra sản phẩm nông nghiệp trực tiếp như lúa, hoa màu, rau xanh, hoa, cây cảnh thì các khu vực canh tác nông nghiệp của thành phố Hội An còn có giá trị tạo cảnh quan sinh thái, điều hòa môi trường, cung cấp cơ sở cho các loại hình du lịch trải nghiệm, du lịch nông nghiệp. Trong 10 năm qua, thành phố đã nỗ lực không chỉ bảo vệ mà còn phát triển các HST nông nghiệp thông qua đề án phát triển KTXH của các khu vực nông thôn đặc thù như: Cẩm Thanh, Cẩm Kim, Cẩm Hà và xã đảo Tân Hiệp, chính sách khuyến khích và hỗ trợ phát triển nông nghiệp hữu cơ (ORGANIC). Định hướng của thành phố là ưu tiên bảo tồn diện tích đất phi đô thị, chú trọng phát triển nông nghiệp sạch gắn với các làng nghề truyền thống để phát triển du lịch sinh thái, du lịch văn hóa, du lịch nông nghiệp, tăng giá trị dịch vụ trên đất nông nghiệp.
@ Các hệ sinh thái khác: Ngoài những HST nêu trên, KSQ còn chứa đựng những HST quan trọng khác như HST sông, HST cửa sông, HST đất ngập nước...vv rất cần thiết trong việc ổn định cuộc sống người dân và đặc biệt góp phần vào quá trình duy trì tính liên kết giữa các HST, đảm bảo sự hài hòa giữa con người với thiên nhiên. Hay nói cách khác, KSQ là nơi thực nghiệm các mô hình phát triển dựa trên nền tảng bảo tồn tính liên kết giữa các HST để chúng cung cấp các dịch vụ HST, phục vụ phát triển bền vững và thích ứng với biến đổi khí hậu của thành phố Hội An. Như vậy, thành phố Hội An đang phát triển kinh tế - xã hội mà chủ yếu là kinh tế du lịch và dịch vụ chủ yếu dựa trên nền tảng cảnh quan sinh thái, không gian văn hóa, các giá trị đa dạng sinh học hài hòa cùng với kho tàng tri thức bản địa. Tất cả những giá trị trên đều được cung cấp trực tiếp hoặc gián tiếp từ các HST của KSQ. Do đó, việc quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị của các HST là nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của KSQ.
(2) Tài nguyên nhân văn được bảo tồn và phát huy
Song hành với việc bảo tồn các giá trị tài thiên nhiên, công tác quản lý, đầu tư tu bổ di tích được quan tâm thực hiện thường xuyên. Các hoạt động bảo tàng, sưu tầm tư liệu, nghiên cứu, hội thảo khoa học cũng được chú trọng. Đặc biệt là đã triển khai đề tài nghiên cứu khoa học “Địa chí Hội An”, xây dựng các hồ sơ đề nghị công nhận di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, hồ sơ đề nghị công nhận nghệ nhân ưu tú; tổ chức tốt các cuộc tham vấn, hội thảo khoa học, qua đó góp phần phát huy giá trị di sản văn hóa Phố cổ Hội An [6]. Thành phố tập trung tổ chức định kỳ nhiều sự kiện văn hóa có tầm ảnh hưởng lớn, điển hình như sự kiện “Đêm phố cổ”, “Festival Di sản Quảng Nam”, “Liên hoan ẩm thực Quốc tế”, “Hội thi Hợp xướng Quốc tế”, “Giao lưu văn hóa Hội An - Nhật Bản”, “Festival tơ lụa và thổ cẩm Việt Nam - Thế giới”…vv. Đặc biệt là tổ chức thành công các hoạt động trong khuôn khổ Tuần lễ cấp cao APEC tại Hội An năm 2017 [6].
Những thách thức đang ở phía trước
Tài nguyên quan trọng của KSQ chính là giá trị cảnh quan sinh thái, tính đa dạng sinh học và giá trị văn hóa lịch sử của địa phương. Giá trị nổi bậc của KSQ chính là sự hài hòa giữa con người và thiên nhiên. Tuy nhiên tài nguyên và những giá trị của KSQ đang đứng trước những khó khăn và thách thức rất lớn: \
(i) Vấn đề ô nhiễm: Cảnh quan, các HST và tính ĐDSH tại KSQ đang bị tác động nặng do nguồn nước bị ô nhiễm từ hoạt động dân sinh, các công trình xây dựng và ảnh hưởng từ lưu vực sông và các dòng hải lưu ven bờ.
(ii) Áp lực từ du khách: Sự gia tăng nhanh chóng số lượng và nhu cầu sử dụng thực phẩm, các dịch vụ HST của khách đến KSQ, gây áp lực rất lớn đến môi trường, sức khỏe các HST. Trong lúc cơ sở hạ tầng, năng lực của doanh nghiệp và cộng đồng chưa nâng cao tương ứng thì sự gia tăng đột biến số lượng du khách là một thách thức đáng kể đối với môi trường, tài nguyên và các giá trị nổi trội của KSQ.
(iii) Sự bất cập, chưa hòa hợp giữa các mục tiêu chiến lược của thành phố: Quần đảo Cù Lao Chàm được ghi nhận có tính ĐDSH cao cả trên rừng và dưới biển. Các HST và tính ĐDSH ở đây có mối liên kết sinh thái rất mật thiết từ đỉnh núi, qua các cánh rừng, đến vùng triều bờ đá/bãi biển cho đến các rạn san hô, thảm cỏ biển dưới đáy đại dương. Tuy nhiên, sự liên kết này đang bị ảnh hưởng không nhỏ bởi các con đường bao quanh đảo cũng như các công trình xây dựng trên đảo. Đất đá, chất thải công trình theo dòng chảy tích tụ và gây ảnh hưởng lớn đến sự tồn tại và phát triển của các rạn san hô và thảm cỏ biển xung quanh đảo. Vùng sinh cư của các loài bị thu hẹp, đường di cư sinh sản và chu kỳ vòng đời của chúng bị phân cắt. Vùng cửa sông, nơi có các các bãi đẻ và ươm giống của nhiều loài thủy sản, trong đó có rất nhiều loài có quan hệ quần thể với nguồn lợi thủy hải sản tại quần đảo Cù Lao Chàm. Tuy nhiên, vùng cửa sông đang chịu áp lực ngày một lớn từ việc đầu tư các công trình cứng và cơ sở hạ tầng trong lưu vực. Thực trạng này đã và sẽ làm ảnh hưởng đến cảnh quan sinh thái, mất tính hoang sơ, thay đổi dòng chảy, suy giảm lượng bùn cát, giảm khả năng kiểm soát chất lượng môi trường của rừng ngập mặn, cắt đứt mối liên kết sinh thái/quần thể trong KSQ, lưu vực sông cũng như vùng bờ ven biển duyên hải miền Trung.
(iv) Tác động của thiên tai, biến đổi khí hậu: Bão tố, lũ lụt, hiện tượng nước biển ấm lên và những tác động khác của biến đổi khí hậu đã và đang ảnh hưởng trực tiếp đến tài nguyên và các giá trị của KSQ. Trầm tích, sự ngọt hóa và ô nhiễm nguồn nước là nguyên nhân gây ra hiện tượng tấy trắng san hô (Coral bleaching) và làm chết nhiều thảm cỏ biển. Hiện tượng sạt lở bờ sông, xói lở bãi biển đang là vấn đề lớn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến phát triển du lịch nói riêng, sinh kế người dân và tình hình KTXH của thành phố nói chung.
Thay cho lời kết
Nhìn tổng thể, sau 10 năm được UNSECO công nhận, tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên nhân văn và các giá trị nổi trội của KSQ được bảo tồn và phát triển tốt. Đáng kể nhất là bảo tồn được 117 ha diện tích rừng dừa nước tại hạ lưu sông Thu Bồn. Rạn san hô được cộng đồng chung tay bảo tồn và phát triển. Các HST quan trọng được bảo tồn và phát triển là điều kiện tốt để duy trì tính ĐDSH. Quan trọng nhất là đã xác định được vòng đời, bãi đẻ, bãi ươm giống tự nhiên của nhiều loài thủy sản trong mối liên kết sinh thái, liên kết quần thể giữa vùng cửa sông Thu Bồn và quần đảo Cù Lao Chàm. Đây chính là chìa khóa nhằm bảo tồn hiệu quả tính ĐDSH học và nguồn lợi thủy sản của KSQ nói riêng và hành lang đa dạng sinh học vùng duyên hải Trung Trung bộ nói chung.
Tuy nhiên, dưới tác động của thiên nhiên và áp lực phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn 2009 – 2016 đã làm thay đổi nhiều khá nhiều về chất lượng môi trường và sự tồn tại của các quần xã sinh vật trong KSQ. Việc đầu tư cơ sở hạ tầng rộng khắp từ hệ thống cồn bãi tự nhiên, bùng nổ du lịch, khai thác thủy sản bằng các phương thức có tính hủy diệt, dòng nước ngọt kéo theo trầm tích và ô nhiễm từ lưu vực sông, sinh vật địch hại …vv đã gây ra hiện tượng tẩy trắng san hô và làm mất đi khoảng 112,5 ha các sinh cảnh quan trọng gồm 77,1 ha dừa nước; 34,6 ha thảm cỏ biển và 0,8 ha rạn san hô, đặc biệt thảm cỏ biển ở Bãi Ông và Bãi Hương hầu như bị biến mất.
Nhìn về tương lai, định hướng lớn của thành phố là xây dựng Hội An trở thành Thành phố Sinh Thái – Văn Hóa – Du lịch với nguồn tài nguyên thiên nhiên - nhân văn được bảo tồn nguyên vẹn. Phố cổ vẫn giữ nguyên được nét cổ kính, các làng quê sinh thái yên bình, nhận thức con người về môi trường được nâng cao, sinh kế phát triển bền vững trên nền tảng của bảo tồn những giá trị nổi trội của Hội An. Đây là một viễn cảnh không xa và để đạt được mục tiêu này, chúng tôi thiết nghĩ rằng, việc lựa chọn cách tiếp cận phù hợp, phát huy nội lực và kêu gọi toàn xã hội cùng tham gia và thực hiện hiệu quả các nhóm giải pháp chiến lược đó là:
(1) Chiến lược truyền thông, nâng cao nhận thức và thay đổi hành vi.
Thực hiện chương trình truyền thông rộng khắp về giá trị, công cuộc bảo tồn và phát huy các giá trị của KSQ đến đông đảo người dân, du khách, đặc biệt là doanh nghiệp, những người có ảnh hưởng rất quan trọng đến việc khai thác và sử dụng tài nguyên trong KSQ; Tăng cường áp dụng, thực thi Quy chế quản lý KSQ trên phạm vi tỉnh Quảng Nam.
(2) Chiến lược đào tạo, nâng cao năng lực.
Đào tạo kỹ năng truyền thông, giao tiếp ứng xử cho các đối tượng là hướng dẫn viên, thuyết minh viên và cộng đồng làm dịch vụ du lịch để phục vụ cho mục tiêu chung là phát triển du lịch sinh thái dựa trên nền tảng bảo tồn; Tăng cường tổ chức các khóa tập huấn, các cuộc hội thảo về các cách tiếp cận phù hợp, hiệu quả đối với việc vận hành KSQ;
(3) Chiến lược nghiên cứu và ứng dụng Khoa học công nghệ. Nghiên cứu áp dụng, triển khai các kết quả đề tài, dự án khoa học công nghệ vào thực tế quản lý, bảo tồn và khai thác bền vững giá trị tài nguyên trong KSQ; Tiếp tục tìm nguồn đầu tư cho các dự án, đề tài khoa học trên các lĩnh vực ưu tiên như là: lượng hóa giá trị các HST, sức tải môi trường, du lịch sinh thái, bảo tồn tài nguyên, biến đổi khí hậu...vv; Kiểm kê, đánh giá tài nguyên rừng nguyên sinh Cù Lao Chàm; Nghiên cứu qui hoạch quản lý sử dụng bền vững tài nguyên trong KSQ; Chương trình phát triển cacbon thấp; Nghiên cứu về tình trạng xói lở bãi biển rất nghiêm trọng tại Hội An.
(4) Chiến lược xây dựng luận cứ khoa học hỗ trợ cho công tác quản lý. Các HST và tính ĐDSH trong KSQ là rất nhạy cảm với sự thay đổi môi trường, các yếu tố ngoại cảnh. Mọi sự thay đổi sẽ diễn ra theo nguyên lý kéo theo và tác động toàn diện lên tất cả nguồn tài nguyên. Việc quản lý tài nguyên thực chất chính là quản lý hành vi của con người gây nên sự thay đổi. Chính vì vậy, việc nghiên cứu để xác định tính liên kết theo các qui luật tự nhiên và xây dựng nên các luận cứ khoa học là rất quan trọng phục vụ cho việc hoạch định các chính sách và định hướng lớn của KSQ và thành phố Hội An.
(5) Chiến lược phát triển sinh kế bền vững thích ứng với biến đổi khí hậu. Nhiệm vụ phát triển bền vững thích ứng với biến đổi khí hậu là vấn đề trọng tâm trong chiến lược của thành phố Hội An. Vệc khai thác tài nguyên phục vụ sinh kế tại các làng nghề cũng như các loại hình dịch vụ cần tính toán và có qui hoạch rõ ràng nhằm đảm bảo cung cấp nguyên liệu đồng thời không làm phương hại đến các giá trị tài nguyên mà KSQ đang nỗ lực bảo tồn. Đồng thời, nhanh chóng thực hiện chương trình phát triển nhãn hiệu chứng nhận KSQ cho các sản phẩm, dịch vụ trong phạm vi KSQ. Tiếp tục đẩy mạnh chương trình phát triển nông nghiệp sạch; giảm thiểu sử dụng túi nilon và các sản phẩm nhựa dùng một lần, phân loại và xử lý rác thải để giảm phát thải ra môi trường. Thông qua đó sẽ giúp khẳng định uy tín, nâng cao chất lượng, tăng giá trị thương hiệu KSQ, thu hút sự tham gia của doanh nghiệp trong hoạt động KSQ để phát triển kinh tế chất lượng trên nền tảng bảo tồn.
(6) Chiến lược giám sát, đánh giá tài nguyên. Việc thường xuyên kiểm kê, đánh giá, giám sát tài nguyên, các giá trị nổi trội của KSQ là cơ sở, nền tảng của công tác bảo tồn. Thông qua đó, giúp các bên liên quan hiểu rõ về hiện trạng, các nguồn tác động để xây dựng các nhóm giải pháp và chương trình hành động cụ thể để bảo tồn và phát triển tài nguyên một cách bền vững. Ngoài ra, các chiến lược quan trọng khác như: phát triển nguồn nhân lực, hợp tác quốc tế, thu hút đầu tư, quản lý cơ sở dữ liệu của KSQ, đầu tư cơ sở hạ tầng và xây dựng cơ bản...vv cần được quan tâm thực hiện đồng bộ để thực hiện thành công mục tiêu xuyên suốt của KSQ và thành phố Hội An là xây dựng thành phố Hội An theo định hướng Sinh thái – Văn hóa – Du lịch theo nguyên tắc “Bảo tồn để phát triển và Phát triển cho bảo tồn”./.
Tài liệu tham khảo:
[1] BQL KSQ CLC-HA, 2015. Kế hoạch quản lý tổng hợp Khu dự trữ sinh quyển thế giới Cù Lao Chàm – Hội An giai đoạn 2015-2019, tầm nhìn 2030.
[2] BQL KSQ CLC-HA, 2017. Kết quả hoạt động giai đoạn 2009 – 2017, định hướng đến 2020. MAB Việt Nam, 2018
[3] Lê Ngọc Thảo, 2017. Tiếp cận và vận hành hiệu quả KSQ CLC – Hội An. Tuyển tập hội thảo quốc gia chương trình Con người và Sinh quyển MAB Vietnam 2017.
[4] Nguyễn Hoàng Trí, 2013. Áp dụng mô hình Tư duy hệ thống - Qui hoạch cảnh quan – Điều phối liên ngành và Kinh tế chất lượng (SLIQ) trong thiết lập và quản các Khu dự trữ sinh quyển thế giới tại Việt Nam. Kỷ yếu hội thảo “Áp dụng qui hoạch không gian biển và vùng bờ Việt Nam – Cách tiếp cận quản lý dựa vào hệ sinh thái. IUCN Việt Nam 2013.
[5] Nguyễn Văn Long và ctv, 2017. Điều tra và đề xuất giải pháp quản lý, sử dụng bền vững đối với tài nguyên đa dạng sinh học ở Khu DTSQ Thế giới Cù Lao Chàm – Hội An.
[6] Phòng VHTT TP Hội An, 2018. Tổng hợp một số tư liệu thành tựu kinh tế - xã hội sau 10 năm thành lập thành phố Hội An 2008 – 2018.
[7] Thành ủy Hội An, 2018. Hội An 10 năm – Kế thừa và Phát triển bền vững. Đặc san kỷ niệm 10 năm thành lập thành phố Hội An (2008-2018).
[8] UBND thành phố Hội An, 2013. Quy hoạch tổng thể phát triển KTXH thành phố Hội An đến năm 2020, tầm nhìn 2025.
[9] UBND xã Cẩm Thanh và BQL KSQ CLC-HA, 2018. Kế hoạch quản lý, bảo tồn và phát triển bền vững hệ sinh thái rừng dừa nước và tài nguyên liên quan tại Cẩm Thanh – vùng đệm Khu dự trữ sinh quyển thế giới Cù Lao Chàm – Hội An, giai đoạn 2018-2022, tầm nhìn 2030.
[10] UBND tỉnh Quảng Nam, 2008. Hồ sơ đề cử Khu dự trữ sinh quyển thế giới CLC-HA. [11] Võ Thanh Sơn, 2018. Báo cáo đánh giá kiểm chứng Bộ tiêu chí và Quy trình giám sát, đánh giá hiệu quả quản lý tại Khu dự trữ sinh quyển Cù Lao Chàm - Hội An. Đề tài “Nghiên cứu xây dựng Bộ tiêu chí và Quy trình giám sát, đánh giá hiệu quả quản lý các khu dự trữ sinh quyển của Việt Nam”, Mã số: ĐTĐLXH, 13/15.
Lê Ngọc Thảo
Trưởng ban thư ký - Khu dự trữ sinh quyển thế giới Cù Lao Chàm - Hội An
Thứ ba, 20 Tháng 5 2014 14:13 Số truy cập:9285
Nằm cuối dòng sông Thu Bồn, thành phố Hội An được thừa hưởng một sự đa dạng các hệ sinh thái vùng cửa sông và ven bờ. Các bãi sậy, cồn cát, rừng ngập mặn, thảm cỏ biển, rạn san hô, quần cư rong biển, rừng tự nhiên Cù Lao Chàm, cũng như cảnh quan trên cạn và dưới nước đã và đang mang lại cho Hội An – Cù Lao Chàm một sự giàu có các dịch vụ sinh thái, tạo tiền đề phát triển kinh tế xã hội địa phương nhất là hình thức du lịch sinh thái [4] (Hình 1,2,3,4). Với tư cách là khu bảo tồn biển (KBTB) được thành lập vào tháng 12 năm 2005 và sau đó là khu dự trữ sinh quyển (KDTSQ) được UNESCO công nhận vào tháng 5 năm 2009, hoạt động bảo tồn đa dạng sinh học tại Cù Lao Chàm và Hội An đã và đang ngày một được quan tâm và gắn liền với du lịch phát triển ngày một mạnh mẽ [16].
Hình 1: Sông Thu Bồn và cuôi dòng sông là Đô thị cổ Hội An và Cù Lao Chàm (Photo: Bùi Kiến Quốc).
Hình 2: Vùng cửa sông Thu Bồn – Hội An (Photo: Bùi Kiến Quốc)
Hình 3: Đồng Cói ven sông Thu Bồn (Photo: Bùi Kiến Quốc)
Hình 4: Các thảm thực vật mềm mại dọc theo bờ sông Thu Bồn
Vùng cửa sông Thu Bồn – Hội An đa dạng các hệ sinh thái điển hình miền nhiệt đới là rừng ngập mặn mà đại diện là cây dừa nước và cỏ biển. Diện tích phân bố các hệ này khoảng hơn 100 ha, tập trung chủ yếu tại xã Cẩm Thanh, nơi có hai hệ sinh thái này đan xem với nhau. Tài nguyên thực vật trong vùng này được tìm thấy khoảng 33 loài bao gồm thảm thực vật tiểu vùng trên triều có 9 họ, 16 loài; thảm thực vật tiểu vùng triều có 6 họ, 9 loài; và thảm thực vật tiểu vùng dưới triều có 8 loài. Động vật thân mềm xác định được 14 loài thuộc 8 họ; giáp xác có 6 loài thuộc 2 họ; cá được tìm thấy 18 loài thuộc 9 họ (Hình 5,6,7).
Hình 5: Cây Đước đôi (Rhizophora apiculata) tại cửa sông Thu Bồn – Hội An
Hình 6: Cây Dừa nước Nippa fructicans tại vùng hạ lưu sông Thu Bồn – Hội An
Hình 7: Cửa sông Thu Bồn – mùa chim về
Toàn bộ diện tích KBTB nằm trong vùng lõi của KDTSQ được bảo tồn nguyên vẹn về đa dạng sinh học. Nơi đây luôn duy trì sự tập trung cao nhất về thành phần loài, các quần thể, quần xã sinh vật từ trên rừng xuống lòng đại dương. Với trên 736 loài thuộc 263 giống của các nhóm sinh vật chủ yếu trong hệ sinh thái rạn san hô và thảm cỏ biển đã được ghi nhận cho thấy khu hệ sinh vật trong vùng nước của KBTB Cù Lao Chàm khá phong phú và đa dạng. Cỏ biển có 5 loài thuộc 3 giống, rong biển kích thước lớn có 76 loài thuộc 46 giống, san hô tạo rạn có 277 loài thuộc 40 giống, cá rạn san hô có 270 loài thuộc 105 giống, thân mềm có 97 loài thuộc 61 giống và da gai có 11 loài thuộc 8 giống [6] (Hình 8,9,10,11).
Hình 8: Cù Lao Chàm, Hội An
Hình 9: Phân bố các quần cư chủ yếu (rạn san hô, thảm cỏ biển và thảm rong biển) trong KBTB Cù Lao Chàm năm 2008 [6].
Hình10: Nghiên cứu cỏ biển Cù Lao Chàm
Hình 11: Rạn san hô Cù Lao Chàm
Cua Đá (Gecarcoidea lalandii), trong năm 2013 đã được cộng đồng quản lý, bảo vệ và khai thác hợp lý với số lượng gần 7.000 con được bắt và kích thước mai cua đảm bảo với cam kết ban đầu là trên 7 cm khi được dán nhãn sinh thái. Đối tượng tài nguyên này bước đầu được bảo vệ và quản lý khai thác một cách khoa học gắn liền với hệ thống giám sát đảm bảo được tính bền vững trong tương lai [12] (Hình 12,13,14,15,16).
Hình 12: Cua Đá được đo kích thước mai cua đúng quy định trước khi được dán nhãn sinh thái.
Hình 13: Cua Đá đạt tiêu chuẩn kích thước chiều ngang mai cua tối thiểu 7 cm, được dán nhãn sinh thái
Hình 14: Cua Đá dán nhãn sinh thái được lưu thành hợp pháp tại Cù Lao Chàm.
Hình 15: Biểu diễn số lượng cua Đá khai thác trong thời gian cho phép từ 1/3 đến 31/7/2013
Hình 16: Phần trăm số lượng cua Đá (%) khai thác phân theo kích thước chiều ngang mai cua (cm) trong thời gian cho phép khai thác từ 1/3 đến 31/7/2013.
Tổng sản lượng tôm Hùm được khai thác tại Cù Lao Chàm là khoảng 15 tấn/năm trong đó 70% được bắt bởi người địa phương còn lại 30% bởi người ngoài (Hình 17,18). Trong khi đó 4 loại ốc Vú Nàng thì chỉ còn ốc Vú Nàng Con là khoảng 5 tấn/năm, các loại ốc Vú Nàng Vú và ốc Vú Nàng Hang hiện đang trong tình trạng bị tấn công rất mãnh liệt với kích thước khai thác rất bé [8] (Hình 19,20).
Hình 17: Tôm hùm bông (sao) Panulirus ornatus (Fabricius, 1798), [8].
Hình 18: Tôm hùm sen Panulirus versicolor (Latreille, 1804), [8]. Ốc vú nàng hang Cellana testudinaria (Linne, 1758). Ốc vú nàng vú Cellana grata (Gould, 1859).
Hình 19: Ốc vú nàng hang Cellana testudinaria (Linne, 1758); Ốc vú nàng vú Cellana grata (Gould, 1859), [8]. Ốc vú nàng sao Cellana radiata (Born, 1778). Vú nàng sao Cellana rota (Gmelin, 1791).
Hình 20: Ốc vú nàng sao Cellana radiata (Born, 1778); Vú nàng sao Cellana rota (Gmelin, 1791), [8].
Sản lượng khai thác hải sản trước đây của Cù Lao Chàm khoảng hơn 1.500 tấn mỗi năm, nhưng chỉ còn 800 tấn/năm từ khi có KBTB và du lịch sinh thái [10]. Hiện tại, người dân tập trung vào khai thác các sản phẩm phục vụ du lịch. Một số vùng ngư trường được bảo tồn, phần lớn là nơi có hệ sinh thái rạn san hô nhạy cảm. Tuy nhiên, một số đối tượng nguồn lợi đang bị khai thác quá mức, biểu hiện qua số lượng cá thể giảm dần, kích thước cá thể bé dần (Hình 21). Đây là thách thức lớn đối với nguồn lực tự nhiên phục vụ phát triển du lịch sinh thái lâu bền.
Hình 21: Mực ống – Squid (Sepioteuthis lessoniana) bị khai thác với kích thước bé dần
Kết quả điều tra chung quanh các khu vực dân cư và các vùng rừng tại khu Bãi Hương, Bãi Chồng, Bãi Làng và thôn Cấm thuộc sườn tây Hòn Lao (gọi chung là Cù Lao Chàm) đã phát hiện và thống kê được 288 loài thuộc 107 họ thực vật có mạch bậc cao trong đó đại diện ngành Dương Xỉ (Polypodiphyta) có 5 loài, thuộc 5 chi, 5 họ; đại diện ngành thông / Hạt trần (Pinophyta / Gymonospermae) có 3 loài thuộc 3 chi, 3 họ và đại diện ngành mộc lan/Hạt kín (Magnoliophyta/Angiospermae) có 280 loài thuộc 235 chi, 99 họ (Hình 22,23).
Hình 22: Rừng cây thuốc Cù Lao Chàm Trong số 280 loài cây thuốc thuộc ngành Mộc lan đã biết kể trên, có 233 loài nằm trong lớp Mộc lan/hai lá mầm (Magnoliopsida/Dicotyledones) và 47 loài nằm trong lớp Hành/Một lá mầm (Liliopsida/Monocotyledones).
Hình 23: Cỏ nhung (Anoectochilus sp.), họ Phong lan (Orchidaceae) và Lạc tiên, địa phương gọi là “Bầu đường” (Passiflora foetida L.).
Mặt khác trong 107 họ thực vật đã phát hiện có cây làm thuốc ở Cù Lao Chàm, có một số họ có nhiều loài được dùng làm thuốc. Họ Thầu dầu (Euphorbiaceae) có 20 loài, họ Cúc (Arteraceae) có 17 loài, họ Cà phê (Rubiaceae) có 11 loài, họ Đậu (Fabaceae) có 10 loài, họ Lúa (Poaceae) có 9 loài, họ Cỏ roi ngựa (Verbenaceae) có 9 loài, các họ Cam quýt (Rutaceae), Bầu bí (Cucurbitaceae), Rau dền (Amaranthaceae) có 6 loài và các họ Hoa môi (Lamiaceae), Long não (Lauraceae), Bông (Malvaceae), Na (Annonaceae), Cà (Solanaceae), Trúc đào (Apocynacea), Cau dừa (Arecaceae) có 5 loài. Tất cả 288 loài cây thuốc kể trên đã được biên tập và xây dựng thành tập “ DANH LỤC CÂY THUỐC Ở SƯỜN TÂY CÙ LAO CHÀM”.
Yến Sào là tên gọi địa phương của một loài chim yến có tên khoa học là Collocalia francica sinh sống trong các hang của bờ đông hòn Cù Lao Chàm và mố số hòn khác như hòn Tai, hòn Khô, hòn Lá, và hòn Ông. Ước tính quần thể loài chim yến này có chừng khoảng 100.000 con. Chim yến ăn các côn trung nhỏ bắt được khi chúng bay lượn trên bầu trời. Nhóm thức ăn này, theo nguồn thông tin trong cộng đồng, có khoảng 50% thành phần là các loại rầy, mà chủ yếu là rầy nâu. Một điều đặc biệt là tổ của loài chim yến này được làm bằng chính nước bọt của nó. Tổ của chim yến đã từ lâu là một sản phẩm rất có giá trị, được dùng làm thức ăn quý giá cho con người (Hình 24).
Hình 24: Hang yến Cù Lao Chàm
KBTB Cù Lao Chàm đã góp phần hỗ trợ người dân địa phương đa dạng hoá sinh kế thay thế, giảm khai thác nguồn lợi, nhưng vẫn đảm bảo được sự phát triển kinh tế địa phương. Mức độ phụ thuộc của người dân địa phương với đa dạng sinh học trước khi xây dựng KBTB chủ yếu vào việc khai thác nguồn lợi thuỷ sản với sản lượng trung bình là 1.467 tấn/năm. Sau khi có KBTB sự phụ thuộc này dần được thay thế bằng sự đa dạng các nguồn sinh kế thay thế mà cụ thể là sự phong phú các sản phẩm du lịch. Hoạt động khai thác thuỷ sản đã được kiểm soát và định hướng theo quản lý hệ sinh thái, với sản lượng khai thác trung bình năm là 865 tấn/năm, tuy nhiên nguồn thu của cộng đồng Cù Lao Chàm đã được cải thiện đáng kể, từ doanh thu 21 tỷ/năm trong thời gian (2001-2004) đến 30 tỷ vào năm 2010. Và đặc biệt, tuy sản lượng khai thác chỉ hơn một nửa của sản lượng trước khi có KBTB, nhưng doanh thu từ hoạt động thuỷ sản đã đạt tương đương 21 tỷ vào năm 2010. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo vệ đa dạng sinh học, nhưng đời sống kinh tế xã hội của người dân địa phương vẫn được cải thiện đi lên.
Tuy nhiên, nhu cầu hưởng dụng tài nguyên thiên nhiên như tiêu thụ nguồn lợi sinh vật biển, sản phẩm rừng ngày càng gia tăng và mãnh liệt theo số lượng du khách đến thăm đảo (Hình 25). Điều này được phản ảnh qua giá bán sản phẩm tại địa phương. Đồng thời thông qua kết quả tuần tra kiểm soát, cũng như độ phủ rạn san hô, mật độ cá rạn, việc khai thác một số đối tượng tài nguyên như Bào Ngư, điệp Quạt, ốc Vú Nàng, ốc Nón, Sao Biển, trai Tai Tượng, cá Cảnh hiện đang phức tạp tại Cù Lao Chàm [1]. Cùng với hiện trạng khai thác khó kiểm soát của người ngoài địa phương, thế mạnh về nguồn lợi thủy sản và đa dạng sinh học tại Cù Lao Chàm có khả năng bị suy giảm, nếu không có giải pháp ngăn chặn, sẽ dẫn đến tình trạng nghèo nguồn lực tự nhiên trong tương lai không xa.
Hình 25: Diễn biến số lượng khách du lịch đến thăm đảo Cù Lao Chàm theo thời gian [1].
Hiện tại doanh thu từ các hoạt động du lịch tại Cù Lao Chàm đã ngày một gia tăng và chiếm tỷ trọng hơn 30% tổng doanh thu của các hoạt động kinh tế tại Cù Lao Chàm bao gồm thu từ hoạt động du lịch (8.380 triệu), thu từ phí dịch vụ môi trường (PES) (849 triệu), thu từ hoạt động khai thác thủy sản (16.309 triệu). Tuy nhiên phần lớn doanh thu du lịch này dựa trên các nguồn sản phẩm khai thác biển và khai thác rừng. Các sản phẩm du lịch có nguồn gốc từ dịch vụ, chế biến, chăn nuôi, trồng trọt rất nghèo. Hơn nữa, tài nguyên biển và rừng của Cù Lao Chàm theo đánh giá là phong phú về chủng loại nhưng hạn chế về số lượng.
Sản phẩm du lịch hiện tại phong phú và được du khách ưa chuộng, tuy nhiên hơn 70% nguồn sản phẩm này lại hoàn toàn phụ thuộc vào nguồn lợi đánh bắt biển và rừng. Sản phẩm dịch vụ biển, rừng, thủ công mỹ nghệ chỉ mới chiếm 30% và chất lượng còn hạn chế. Vì vậy trong tương lai Cù Lao Chàm cần nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch, phong phú lợi ích du lịch cho cộng đồng thì mới đảm bảo được tính bền vững trong sự phát triển kinh tế địa phương, gắn liền với bảo tồn.
Khái niệm du lịch sinh thái được áp dụng vào Cù Lao Chàm trong thời gian 10 năm qua chỉ mới phát triển được ý nghĩa của du lịch trên nền tảng của tiềm năng tự nhiên mà cụ thể thông qua diễn biến các dấu hiệu về phát triển sinh kế, số lượng khách du lịch và sự diễn biến tình trạng của các hệ sinh thái và các sinh vật đi kèm. KBTB Cù Lao Chàm chưa phát huy được tính tích cực của khái niệm là hoạt động du lịch và cộng đồng phải là một thành phần của hệ sinh thái, khai thác có sự tái đầu tư để hệ sinh thái này được hoạt động một cách bền vững.
Thông qua phương thức đồng quản lý, KBTB Cù Lao Chàm đã góp phần xác định được diễn biến các mâu thuẩn trong quản lý đa dạng sinh học của địa phương. Nếu như khi bắt đầu bảo tồn biển, mâu thuẩn chính trong quản lý đa dạng sinh học là khai thác không hợp lý được thể hiện qua loại hình khai thác và cường lực khai thác cũng như đối tượng khai thác theo thời gian và không gian tại vùng biển Cù Lao Chàm, mâu thuẩn giữa bảo tồn và sinh kế thay thế cho người dân địa phương, thì ngày nay các mâu thuẫn đó chủ yếu tập trung vào chia sẻ lợi ích trong hoạt động du lịch trên cơ sở bảo tồn, của người dân địa phương và người ngoài KBTB, mâu thuẩn giữa nhu cầu về các sản phẩm du lịch có nguồn gốc khác nhau trong KBTB, mâu thuẩn giữa cung và cầu do sự lượng khách du lịch ngày càng gia tăng, và mâu thuẩn quan hệ giữa các nhóm cộng đồng nghề nghiệp trong KBTB. Phương thức đồng quản lý đã chỉ ra lợi ích cộng đồng chỉ đạt ngưỡng cao nhất khi nó thoả mãn được lợi ích của các nhóm nghề nghiệp khác nhau tại KBTB, vì vậy đã đến lúc cộng đồng KBTB Cù Lao Chàm cần tiếp cận chọn lọc sản phẩm du lịch mục tiêu, đề cao tính liên kết giữa các sản phẩm trong chuỗi sản phẩm du lịch, và tính toán ngưỡng hợp lý cho việc điều tiết lượng khách du lịch đến tham quan.
Các nguyên nhân gián tiếp liên quan đến suy giảm nguồn lợi là sự phối kết hợp trong quản lý nguồn lực tài nguyên thiên nhiên chưa đủ mạnh và thuyết phục cộng đồng tham gia bảo vệ. Các lực lượng chức năng như công an xã, biên phòng, kiểm ngư, dân quân xã và bảo tồn biển cần có sự phối kết hợp chặt chẽ và hỗ trợ nhau trong công tác tuần tra, kiểm soát, quản lý và bảo vệ.
Các dấu hiệu về chất lượng nước của vùng cửa sông Thu Bồn – Hội An đã và đang ảnh hưởng trực tiếp đến Cù Lao Chàm, đặc biệt trong mùa mưa, bão. Hiện tượng nước ngọt, phù sa, rác thải đã có ảnh hưởng tăng dần tại các vùng rạn san hô. Hiện trạng mở đường quanh đảo, xây dựng bờ kè, sửa chữa lại âu thuyền, và các công trình hạ tầng phần nào cũng đã làm ảnh hưởng đến cảnh quan của Cù Lao Chàm trong một thời gian nhất định. Nhằm khắc phục các tình trạng nêu trên, KBTB Cù Lao Chàm đã đề nghị mở rộng tiếp cận bảo tồn biển vào vùng bờ, hạ lưu sông Thu Bồn, gắn bảo tồn biển với phục hồi rừng ngập mặn, các bãi sậy, đụn cát trong vùng cửa sông. Đồng thời trong năm 2013, Cù Lao Chàm cũng đã ứng dụng công nghệ phục hồi san hô và đã nuôi cấy tại vùng phục hồi 4.800 tập đoàn, tại vườn ươm 750 tập đoàn san hô. Tỷ lệ sống của san hô nuôi cấy tại vườn ươm khoảng 87% và tại vùng phục hồi là 74%. Số tập đoàn san hô tách từ vườn ươm sang phục hồi là hơn 400 tập đoàn [2]. Đồng thời một số tập đoàn san hô bàn, cành mới cũng đã được ghi nhận tại các gềnh đá Cù Lao Chàm. Đây là dấu hiệu phục hồi tự nhiên của các loài san hô tạo rạn tại các vùng nước được giữ gìn sạch sẽ (Hình 26,27,28,29).
Hình 26: Nước ngọt, phù sa từ trong vùng cửa sông tấn công vùng nước KBTB vào mùa mưa
Hình 27: Sao Biển Gai bùng nổ đang hủy diệt các tập đoàn san hô tạo rạn
Hình 28: Nhân giống san hô trong vườn ươm
Hình 29: Cấy phục hồi lại san hô
DIỄN BIẾN QUẢN LÝ ĐA DẠNG SINH HỌC TRONG KDTSQ CÙ LAO CHÀM – HỘI AN THEO THỜI GIAN
KBTB Cù Lao Chàm đã hỗ trợ cộng đồng tham gia tích cực vào hoạt động bảo tồn đa dạng sinh học và phát triển sinh kế thay thế tại địa phương. Thông qua phương thức đồng quản lý, KBTB Cù Lao Chàm giới thiệu và cộng đồng tiếp nhận cách tiếp cận mới về quản lý đa dạng sinh học trên cơ sở hệ sinh thái một cách kịp thời. Đồng thời KBTB Cù Lao Chàm đã lồng ghép được các khái niệm về quản lý tổng hợp và quản lý thích ứng vào việc quản lý đa dạng sinh học tại địa phương. KBTB Cù Lao Chàm đã thể hiện được sự đồng thuận cao của cộng đồng trong quy hoạch phân vùng và xây dựng quy chế và kế hoạch quản lý, cũng như sự phê chuẩn của UBND tỉnh Quảng Nam cho các cam kết này của cộng đồng.
Diễn biến nguồn lực xã hội trong du lịch sinh thái tại Cù Lao Chàm được thể hiện qua sự thành lập, ban hành và duy trì các thể chế cộng đồng theo thời gian từ tháng 10/2003 đến tháng 10/2013. Các thể chế này là kết quả của sự đồng thuận giữa các thành phần cộng đồng với nhau trong hoạt động du lịch sinh thái và bảo tồn. Đồng thời Nhà nước có trách nhiệm thành lập và phê chuẩn các cam kết của cộng đồng làm cơ sở pháp lý tại địa phương hỗ trợ cho công tác bảo tồn và phát triển du lịch sinh thái. Diễn biến các thể chế cộng đồng theo thời gian từ 10/2003 đến 10/2013 được trình bày trong Bảng 1.
Bảng 1: Diễn biến các thể chế cộng đồng được thành lập, ban hành và duy trì.
Như vậy theo Bảng 1 có thể nhận thấy trong thời gian từ tháng 10/2003 đến tháng 10/2006, hoạt động bảo tồn và phát triển du lịch sinh thái tại Cù Lao Chàm đã bắt đầu được tiếp cận với khái niệm quản lý tổng hợp và quản lý thích ứng trên cơ sở tiếp cận hệ sinh thái. Cộng đồng đã được giới thiệu về bảo tồn biển, phân vùng bảo vệ, kiểm soát khai thác thông qua mùa vụ, và ngư trường (Bảng 2).
Bảng 2: Quy chế quản lý KBTB Cù Lao Chàm [11].
Năm 2006 là năm bản lề chuyển biến mạnh mẽ trong bảo tồn biển tại Cù Lao Chàm. Quy hoạch phân vùng chức năng để bảo vệ, khai thác hợp lý và phát triển du lịch sinh thái được UBND tỉnh phê chuẩn, các tổ chức cộng đồng được thành lập để thực thi. Đặc biệt đội tuần tra bảo tồn biển được thành lập làm cầu nối phối hợp với các bên liên quan là bộ đội biên phòng, công an địa phương, thanh tra thuỷ sản và cộng đồng để giám sát, kiểm tra các hoạt động bảo tồn và du lịch sinh thái tại các rạn san hô, thảm cỏ biển. Năm 2008 là năm cộng đồng Cù Lao Chàm được tiếp cận bảo tồn và du lịch sinh thái trên các đối tượng tài nguyên mục tiêu cụ thể bao gồm rạn san hô, thảm cỏ biển, tôm Hùm, cua Đá, ốc Vú Nàng và bãi biển.
Năm 2009 và 2010 là thời gian cộng đồng được hướng dẫn tăng cường công tác quản lý các hoạt động du lịch tại địa phương. Đồng thời chất lượng môi trường cũng được cộng đồng ưu tiên quan tâm. Cộng đồng đã tham gia phong trào “nói không với túi nylon” và hành động này không chỉ dừng lại ở vấn đề môi trường mà nó đã trở thành một sản phẩm du lịch, góp phần nâng cao thu nhập cho cộng đồng Cù Lao Chàm. Sự phát triển của du lịch đã và đang là cơ hội nhưng đồng thời cũng mang lại nhiều thách thức đối với công tác bảo tồn tại Cù Lao Chàm. Chỉ thị 04 về việc cấm khai thác cua Đá được thành phố Hội An ban hành đã và đang hỗ trợ cho việc thực thi cam kết cộng đồng đối với phát triển du lịch sinh thái tại địa phương. Các thể chế cộng đồng gắn liền với bảo tồn và du lịch sinh thái theo tiến trình đồng quản lý đã phát triển mạnh mẽ theo thời gian cả về số lượng và chất lượng, nhằm đảm bảo lợi ích và trách nhiệm của các bên liên quan được chia sẻ một cách công bằng. Đặc biệt từ năm 2011 đến nay, các nỗ lực của cộng đồng đã trở thành hiện thực với sự ra đời của Tổ cua Đá, Tiểu Khu Bảo tồn biển Bãi Hương, một lần nữa đã chứng tỏ sự lớn mạnh và khả năng chia sẻ trách nhiệm và lợi ích của từng nhóm cộng đồng với hoạt động bảo tồn hỗ trợ cho phát triển du lịch sinh thái tại Cù Lao Chàm.
Trước tác động của những tai biến thiên nhiên trong những năm qua và sự ảnh hưởng của các hoạt động từ đất liền thông qua nguồn nước lũ phát tán từ sông Thu Bồn đã và đang đe dọa đến sự tồn tại và phát triển của tài nguyên đa dạng sinh học trong KBTB Cù Lao Chàm. Việc quản lý ở phạm vi của KBTB đã và đang gặp nhiều khó khăn do những tác động bất lợi từ bên ngoài có nguồn gốc từ đất liền hoặc các hoạt động ở những khu vực lân cận. Vì vậy, vấn đề quản lý hiện nay đòi hỏi cần phải được nhìn nhận và tiếp cận theo quan điểm quản lý tổng hợp vùng bờ một cách tổng thể nhằm hạn chế các tác động từ đất liền hoặc các vùng lân cận đối với KBTB Cù Lao Chàm. Với sự gia tăng tần suất và phạm vi ảnh hưởng của các tác động từ sông đối với KBTB, việc thiết lập các trạm và tiến hành quan trắc chất lượng môi trường nước theo 2 mùa (mùa khô và mùa mưa) tại khu vực Cù Lao Chàm nhằm theo dõi diễn biến, đồng thời cảnh bảo các tác động tiềm tàng từ đất liền đối với tài nguyên đa dạng sinh học ở đây là điều cần thiết và mang ý nghĩa thiết thực.
Mở rộng phạm vi bảo tồn biển vào trong vùng bờ mà cụ thể là vùng cửa sông Thu Bồn và dọc theo đường bờ của Quảng Nam, đề nghị này được hỗ trợ bằng các kết quả nghiên cứu về đánh giá bảo tồn biển. Hiện tại, chất lượng nước của khu bảo tồn biển đang bị ảnh hưởng bởi nguồn thải trong đất liền mà cụ thể là từ vùng cửa sông Thu Bồn. Sự mở rộng phạm vi của bảo tồn biển vào cửa sông sẽ có điều kiện tuyên truyền, giáo dục và nâng cao nhận thức cộng đồng trong việc bảo vệ môi trường giảm thiểu chất thải, phục hồi rừng dừa nước Cẩm Thanh. Đồng thời liên kết trong việc bảo vệ nguồn lợi biển và san hô từ xa thông quan nâng cao nhận thức cho việc khai thác đánh bắt một cách hợp lý tại Cù Lao Chàm.
Trong quá trình làm bảo tồn, cộng đồng Cù Lao Chàm đã nhận được lợi ích từ du lịch sinh thái phát triển trên nền tảng của bảo tồn, tuy nhiên người dân địa phương trong KBTB Cù Lao Chàm mới chỉ nhận được khoảng 1/3 tổng giá trị đó, phần còn lại là thuộc về người ngoài KBTB, vì vậy KBTB Cù Lao Chàm cần tiếp tục nghiên cứu hành động các diễn biến này nhằm tư vấn quản lý có chính sách phù hợp bảo vệ lợi ích cho cộng đồng người dân địa phương, để cân bằng với trách nhiệm của cộng đồng về quản lý bảo vệ TN&MT tại KBTB.
Tuy số lượng quần thể sao biển gai có giảm xuống theo thời gian nhưng một số rạn vẫn còn có sự hiện diện tương đối cao mật độ của sao biển gai ở những khu vực Vũng Ráng và Vũng Đá Bao (Hòn Lá), Bãi Đâu Tai và Bãi Bắc (tây Cù Lao Chàm), Vũng Đá Đen và Vũng Thùng (Hòn Tai). Sao biển gai là sinh vật địch hại nguy hiểm của san hô, vì vậy sự hiện diện của chúng với số lượng lớn sẽ làm cho nhiều khu vực rạn bị chết và suy thoái. Việc tổ chức chương trình định kỳ thu gom sao biển gai với sự tham gia của các bên liên quan (các đơn vị kinh doanh du lịch, bộ đội, biên phòng và cộng đồng) được xem là một trong những giải pháp hữu hiệu nhất trong điều kiện hiện nay.
Sự ra đời của KBTB và sau đó là KDTSQ đã hỗ trợ cho cộng đồng Cù Lao Chàm – Hội An cơ sở thuận lợi trong quản lý bảo tồn đa dạng sinh học thông qua phát triển du lịch sinh thái. Và thực tế trong 10 năm qua từ khi KBTB bắt đầu xây dựng đến nay Cù Lao Chàm – Hội An đã đạt được những bước phát triển mạnh mẽ cùng với hình thức du lịch sinh thái gắn liền với bảo tồn đa dạng sinh học. Qua mô hình Cù Lao Chàm – Hội An, một lần nữa khái niệm bảo tồn cho phát triển và phát triển phải bảo tồn đã và đang được minh chứng rất rõ nghĩa thông qua “ Du lịch sinh thái là bảo tồn đa dạng sinh học và lợi ích cộng đồng”.
Tuy nhiên, qua phân tích chúng ta cũng nhận thấy rõ sự phát triển mạnh mẽ và “ào ạt” du lịch sinh thái đã và đang gây nên một áp lực rất lớn về bảo tồn đa dạng sinh học tại Cù Lao Chàm – Hội An. Một lần nữa Cù Lao Chàm – Hội An cần phát huy lợi thế của du lịch cùng văn hóa và con người để tăng cường sự bảo vệ và phục hồi nguồn lực tài nguyên thiên nhiên, đa dạng sinh học cho sự phát triển bền vững kinh tế xã hội của địa phương.
Một trong những khái niệm mà Cù Lao Chàm - Hội An đang rất cần phát huy là sử dụng tích cực danh hiệu KDTSQ tại địa phương, nhất là tại vùng cứa sông Thu Bồn – Hội An. 7 tiêu chí của KDTSQ Cù Lao Chàm – Hội An cần được triển khai sâu rộng trong cộng đồng nhằm tăng cường sức mạnh của toàn dân cho bảo tồn đa dạng sinh học và phát triển du lịch sinh thái tại vùng này [13]. Cù Lao Chàm cần phải được bảo vệ cho sự phát triển của toàn vùng hạ lưu. Sự chuyển biến trong nhận thức cũng như trong ứng xử tốt dần với thiên nhiên của con người trong KDTSQ sẽ góp phần phát triển bảo tồn đa dạng sinh học và du lịch sinh thái. Hai dòng vật chất và tri thức – văn hóa tại KDTSQ cần được xác định rõ trong nhận thức của con người hưởng lợi tại đây. Dòng vật chất được bảo tồn để cung cấp cho con người, đó là nguồn lợi thủy sản, yến sào, rau rừng, lá thuốc, bánh ít, võng ngô đồng, cua Đá, cảnh quan…được duy trì và trao đổi với dòng tri thức – văn hóa từ con người ứng xử với thiên nhiên, đó là các mô hình phân loại rác tại nguồn, nói không với túi ni lông, bảo tồn biển, bảo tồn di sản văn hóa, bảo tồn cua Đá, homestay, du lịch cộng đồng (Hình 30).
Hình 30: Bảo tồn đa dạng sinh học và du lịch sinh thái Cù Lao Chàm – Hội An được nhìn nhận là điểm nhấn cho sự phát triển của toàn vùng hạ lưu sông Thu Bồn.
Chiến lược phát triển bảo tồn đa dạng sinh học và du lịch sinh thái Cù Lao Chàm – Hội An cần phải được đặt nền tảng trên sự phát triển của KBTB và KDTSQ Cù Lao Chàm – Hội An. Trong chiến lược phát triển bảo tồn đa dạng sinh học và du lịch sinh thái ấy cần phải bao gồm các nội dung về truyền thông nâng cao nhận thức và năng lực cộng đồng, nghiên cứu khoa học và trình bày kết quả, phối kết hợp các bên liên quan trong quản lý bảo tồn đa dạng sinh học, tài nguyên, môi trường, sức chứa du lịch, giáo dục và đào tạo về bảo tồn và sử dụng bền vững, giám sát, đánh giá, báo cáo và phát triển nguồn nhân lực cho hôm nay và trong tương lai [13].
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] BQL Khu Bảo tồn biển Cù Lao Chàm (2013), Báo cáo đánh giá kế hoạch quản lý Khu Bảo tồn biển Cù Lao Chàm giai đoạn 2009-2013, UBND thành phố Hội An.
[2] BQL Khu Bảo tồn biển Cù Lao Chàm (2013), Xây dựng cơ chế quản lý và sử dụng vùng phục hồi rạn san hô tại KBTB Cù Lao Chàm; Một số vấn đề liên quan đến khai thác và sử dụng, UBND thành phố Hội An.
[3] Nguyễn Thị Thùy Dương (2012), Xây dựng mô hình “Nói không với túi ni lông”, Trường hợp nghiên cứu Quần đảo Cù Lao Chàm, thành phố Hội An, Đồ án tốt nghiệp đại học, Bộ môn Kỹ thuật và Quản lý Môi trường, Khoa Công nghệ Môi trường, Đại học Duy Tân.
[4] Nguyễn Hữu Đại (2006), Đánh giá hiện trạng tài nguyên đất ngập nước hạ lưu sông Thu Bồn và giải pháp quản lý, bảo vệ, phục hồi. BQL Khu Bảo tồn biển Cù Lao Chàm, Quảng Nam, Việt Nam.
[5] Trần Thị Hồng Hoa (2013), Tìm hiểu vai trò của cộng đồng trong hoạt động du lịch sinh thái tại Khu Bảo tồn biển Cù Lao Chàm – Tỉnh Quảng Nam, Khóa luận tốt nghiệp, Khoa Địa lý, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh.
[6] Nguyễn Văn Long (2008), Đánh giá đa dạng sinh học và chất lượng môi trường khu bảo tồn biển Cù Lao Chàm 2004 – 2008, Viện Hải Dương học, Viện Khoa học Việt Nam.
[7] Nguyễn Đức Minh (2013), Khu Dự trữ Sinh Quyển Cù Lao Chàm – Hội An; Những vấn đề cần quan tâm, Hội thảo Khu Dự trữ Sinh quyển Thế giới Cù Lao Chàm – Hội An, ngày 24/10/2013, Hội An, Quảng Nam, Việt Nam.
[8] Lê Ngọc Thảo, Huỳnh Ngọc Diên (2013), Điều tra thành phần loài, vùng phân bố, hiện trạng khai thác và xây dựng mô hình đồng quản lý tôm Hùm, ốc Vú Nàng tại Cù Lao Chàm, BQL Khu Bảo tồn biển Cù Lao Chàm.
[9] Nguyễn Hoàng Trí (2013), Khu Dự trữ Sinh Quyển Cù Lao Chàm – Hội An; Thay đổi để thành công, Hội thảo Khu Dự trữ Sinh quyển Thế giới Cù Lao Chàm – Hội An, ngày 24/10/2013, Hội An, Quảng Nam, Việt Nam.
[10] Chu Mạnh Trinh (2010), Lợi ích cộng đồng trong hoạt động du lịch tại Khu Dự trữ Sinh quyển Cù Lao Chàm - Hội An, Khu bảo tồn biển Cù Lao Chàm, Quảng Nam.
[11] Chu Mạnh Trinh (2011), “Đồng quản lý tài nguyên và môi trường tại Khu bảo tồn biển Cù Lao Chàm”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ biển T11 (2011), 2, tr.79-95.
[12] Chu Mạnh Trinh, Lê Ngọc Thảo (2013), Cộng đồng bảo vệ và khai thác hợp lý cua Đá Cù Lao Chàm (Gecarcoidea lalandii) góp phần khẳng định thương hiệu biển Việt Nam, Ban Quản lý Khu Bảo tồn biển Cù Lao Chàm.
[13] Chu Manh Trinh (2013), Khu Dự trữ Sinh quyển Thế giới Cù Lao Chàm – Hội An; Định hướng phát triển bền vững, Hội thảo Khu Dự trữ Sinh quyển Thế giới Cù Lao Chàm – Hội An, ngày 24/10/2013, Hội An, Quảng Nam, Việt Nam.
[14] Angus McEwin (2007), Livelihoods Analysis of Cu Lao Cham, Quang Nam MPA Project.
[15] Angus McEwin, Nguyen To Uyen, Tham Ngoc Diep, Ha Minh Tri and Keith Symington (2008), Sustainable Livelihood Strategy: Vietnam Marine Protected Areas, published by “Sustainabel Livelihoods in and around Marine Protected Areas” (LMPA), Ministry of Agriculture and Rural Development (MARD) – a component of Danish Development Cooperation in the Environment (DCE) Programme (2005-2010), Hanoi, Vietnam.
[16] UNESCO – MAB (2009), Cu Lao Cham – Hoi An, Viet Nam has been designated for inclusion in the World Network of Biosphere Reserves, 26/5/2009. Chu Mạnh Trinh – Khu Bảo tồn biển Cù Lao Chàm
Chu Mạnh Trinh - BQL Khu bảo tồn biển Cù Lao Chàm
Thứ hai, 24 Tháng 2 2014 13:50 Số truy cập:12949
Thứ tư, 15 Tháng 1 2014 13:26 Số truy cập:10944
Lần cập nhật cuối lúc Thứ ba, 29 Tháng 10 2013 07:00 Viết bởi Phạm Văn Hiệp Thứ sáu, 25 Tháng 10 2013 06:11 Số truy cập:13243
Trung tâm Bảo tồn Sinh vật biển và Phát triển Cộng đồng
Du lịch sinh thái cộng đồng Cù Lao Chàm
Khu sinh quyển Cù Lao Chàm - Hội An