Đề tài “Nghiên cứu ứng dụng công nghệ phục hồi san hô cứng ở một số khu bảo tồn biển trọng điểm” được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn phê duyệt và giao cho PGS. TS Võ Sĩ Tuấn – Viện Hải dương học chủ trì thực hiện trong thời gian từ năm 2011 đến 2013 với mục tiêu là xây dựng được mô hình phục hồi rạn san hô cứng tại các khu bảo tồn biển Cù Lao Chàm và vịnh Nha Trang.
Ảnh minh họa
Sau quá trình thực hiện hơn 2 năm, việc xây dựng mô hình phục hồi và quản lý rạn san hô ở các khu bảo tồn biển đã đạt được những kết quả nhất định. Hoạt động của đề tài được triển khai với sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan khoa học và ban quản lý các khu bảo tồn biển với sự tham gia của người dân sống trong khu bảo tồn biển. Hoạt động đào tạo bằng hình thức “học thông qua làm” đã mang lại lợi ích thiết thực cho khu bảo tồn biển (nhất là ở Cù Lao Chàm). Cơ chế quản lý sau phục hồi đã đạt được sự đồng thuận và là cơ sở cho việc mở rộng qui mô phục hồi và quản lý sử dụng hợp lý sau khi kết thúc đề tài.
Về mặt kỹ thuật, san hô cứng đã được phục hồi trên tổng diện tích là 5.550 m2 ở khu bảo tồn biển vịnh Nha Trang và 5.200 m2 ở Cù Lao Chàm. Thử nghiệm phục hồi cho phép lựa chọn các loài thích hợp tại từng khu vực dựa trên nguồn cho và điều kiện sinh thái, tỷ lệ sống của các loài hầu hết đều trên 60%. Nguyên nhân gây chết cũng đã được xác định, chủ yếu là do địch hại và tác động cơ học do hoạt động của con người. Trong các san hô phục hồi, các loài thuộc giống Acropora có tốc độ tăng trưởng khá nhanh, nhưng khá nhạy cảm với tác động của con người và biển đổi điều kiện môi trường.
Hoạt động phục hồi và quản lý trong phạm vi đề tài đã góp phần cải thiện chất lượng hệ sinh thái ở các mức độ khác nhau, chủ yếu phụ thuộc vào độ dài thời gian thực hiện. Ở Nha Trang, tổng độ phủ của san hô sau quá trình phục hồi và quản lý tăng đáng kể đối với đông bắc Hòn Mun (đạt giá trị 37,5%, tăng 1,3 lần so với năm 2011) và Vinpearl 2 (đạt giá trị 26,3%, tăng 2,3 lần so với năm 2011) nhưng không tăng đối với khu vực Vinpearl 1. Mật độ cá rạn san hô tăng đáng kể vào thời điểm sau so với trước phục hồi ở đông bắc Hòn Mun (tăng gần 1,4 lần) và ở Vinpearl 1 (tăng hơn 2,1 lần). Ngược lại, mật độ cá không tăng ở Vinpearl 2, nơi bắt đầu phục hồi muộn hơn (từ tháng 4/2013). Về sinh vật đáy, đã ghi nhận một số thay đổi sau phục hồi như xuất hiện với số lượng ít các loài có giá trị thực phầm gồm Ốc đụn Trochus maculatus, Ốc tắc kè Lambis scopius, Bàn mai Pinna bicolor và Trai tai tượng Tridacna sp. ở một số khu vực. Đối với Cù Lao Chàm, tại Bãi Hương độ phủ san hô cứng tăng 4% và san hô mềm tăng 3%, đưa tổng độ phủ tăng từ 11 lên 18%; còn ở khu vực Bãi Bấc, độ phủ san hô san hô cứng tăng 4% và san hô mềm tăng 7%, tổng độ phủ tăng từ 8 lên 19%. Mật độ cá trung bình có sự gia tăng tương ứng gần 1,6 lần tại Bãi Bắc và hơn 1,2 lần tại Bãi Hương. Tuy nhiên, mật độ sinh vật đáy không được cải thiện, thậm chí suy giảm vào thời điểm sau phục hồi và quản lý. Điều này chứng tỏ hiệu ứng phục hồi chưa cao và công tác quản lý chưa ngăn chặn được việc lặn bắt sinh vật đáy trong các khu vực lựa chọn. Đối với khu bảo tồn biển Cồn Cỏ, thử nghiệm sơ bộ với tỷ lệ sống khá cao (trên 70%) và tốc độ tăng trưởng khá cho thấy khả năng của việc triển khai phục hồi trong tương lai.
Cơ chế quản lý cũng được thiết lập cho từng khu vực riêng biệt. Khu vực đông bắc Hòn Mun được đề xuất đóng cửa hoạt động du lịch có thời hạn nhằm giảm áp lực sử dụng vùng rạn và tiến hành theo dõi tốc độ phục hồi san hô kể cả phục hồi tự nhiên. Cũng như thả phục hồi sinh vật nguồn lợi nhằm thúc đẩy quá trình phục hồi nguồn lợi trong khu vực. Ban quản lý vịnh Nha trang đóng vai trò chủ đạo trong việc tổ chức thực hiện. Khu vực Vinpearl có các hoạt động: 1) Duy trì kết quả phục hồi san hô và thả phục hồi một số sinh vật nguồn lợi có giá trị cao; 2) Theo dõi diễn thế hệ sinh thái trên các bờ kè nhân tạo và 3) từng bước xây dựng cảnh quan dưới nước phục vụ cho du lịch sinh thái. Công ty Vinpearl huy động các nguồn tài chính nhằm tiếp nhận công nghệ và triển khai dự án tạo cảnh quan dưới nước và phục hồi nguồn lợi rạn san hô. Khu vực Đầm Báy: duy trì các hoạt động nghiên cứu khoa học, tạo vườn san hô phục vụ cho các hoạt động nghiên cứu khoa học và nuôi thả trong tự nhiên một số sinh vật có giá trị cao. Trung tâm Nhiệt đới Việt – Nga đóng vai trò chủ đạo.
Đối với khu vực Bãi Bấc, Ban quản lý Khu Bảo tồn biển Cù Lao Chàm sẽ kết hợp với doanh nghiệp Hội An Travel xây dựng cơ chế đồng quản lý nhằm bảo vệ và khai thác sử dụng có hiệu quả rạn san hô trong khu vực này nhằm mục tiêu tái tạo nguồn lợi thủy sản và du lịch bền vững. Rạn san hô Bãi Hương nên được giao cho Ban quản lý Tiểu khu Bãi Hương – Hòn Tai quản lý và tổ chức thực hiện dưới sự giám sát của Ban quản lý khu Bảo tồn biển Cù Lao Chàm.
Kết quả thứ ba về đào tạo kỹ năng phục hồi san hô cứng: 38 học viên đến từ Viện Nghiên cứu Hải sản Hải Phòng, Ban Quản lý vịnh Nha Trang, Khu bảo tồn Núi Chúa, Viện Hải dương học, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Khánh Hòa, Ban Quản lý khu bảo tồn biển và ngư dân Cù Lao Chàm. Đa số học viên sau đó trực tiếp tham gia các hoạt động đánh giá và phục hồi trong thời gian thực hiện đề tài.
Đề tài cũng đã biên soạn một bản thảo Hướng dẫn kỹ thuật phục hồi san hô cứng ở vùng biển Việt Nam nhằm cung cấp cơ sở khoa học cũng như qui trình thực hiện phục hồi san hô cho các triển khai phục hồi san hô ở các khu bảo tồn trong tương lai.
Theo nguồn: http://www.fistenet.gov.vn/