Khu bảo tồn biển (Khu BTB) Cù Lao Chàm được hình thành trong giai đoạn 2005 – 2006, với nhiều giá trị tài nguyên thiên nhiên nổi trội như các hệ sinh thái (HST) rạn san hô, thảm cỏ biển, rong biển, bãi biển và vùng triều, hệ sinh thái rừng đặc dụng Cù Lao Chàm,…vv.
Để quản lý hiệu quả Khu bảo tồn biển Cù Lao Chàm, phương thức quản lý tổng hợp, với nhiều cơ quan, đơn vị, đặc biệt là sự tham gia của cộng đồng địa phương đã được quan tâm thực hiện xuyên suốt trong quá trình quản lý.
Đến nay, Ban quản lý (BQL) Khu bảo tồn biển Cù Lao Chàm đã xây dựng và thực hiện 02 kế hoạch quản lý tổng hợp (KHQL), cụ thể: KHQL 05 năm lần thứ nhất được UBND tỉnh Quảng Nam phê duyệt và thực hiện trong giai đoạn 2009 – 2013 (theo QĐ số 4532/QĐ-UBND ngày 31/12/2008) và KHQL 05 năm lần thứ hai do UBND thành phố Hội An phê duyệt, thực hiện trong giai đoạn 2014 – 2018 (theo QĐ số 1999/QĐ-UBND ngày 20/10/2015) với mục tiêu chung là bảo tồn và tôn tạo các giá trị tài nguyên thiên nhiên, môi trường, đa dạng sinh học; các giá trị di tích văn hóa; khai thác hợp lý và phát huy các giá trị tài nguyên thiên nhiên trong Khu BTB; cải thiện và nâng cao đời sống của cộng đồng dân cư sống trong và xung quanh Khu BTB; phục vụ phát triển bền vững kinh tế- xã hội tại địa phương; đảm bảo và duy trì chức năng của vùng lõi KSQ Cù Lao Chàm – Hội An. Trong đó, BQL cùng với cộng đồng đã xác định một số đối tượng, tài nguyên có giá trị sinh học, sinh thái và kinh tế cao để chọn làm đối tượng tài nguyên mục tiêu (ĐTMT) nhằm ưu tiên bảo vệ và phục hồi gồm: hệ sinh thái rạn san hô (RSH), thảm cỏ biển, rừng đặc dụng, hệ rong biển, nhóm cá rạn, rùa biển, tôm hùm, bàn mai, trai tai tượng, bào ngư và ốc vú nàng.
Nhằm đưa ra những phương thức quản lý, bảo tồn và phục hồi có hiệu quả, BQL đã thiết lập và thực hiện các chương trình giám sát thường xuyên các nhóm ĐTMT để theo dõi diễn biến nhóm này như: giám sát chất lượng môi trường nước biển ven bờ hàng tháng (chỉ số giám sát: nhiệt độ, pH, DO, độ đục, độ mặn); giám sát hệ sinh thái RSH vào tháng 5 hàng năm (chỉ số giám sát: độ phủ RSH, mật độ nhóm cá rạn, mật độ động vật đáy, mật độ các tác động lên RSH); giám sát hệ sinh thái thảm cỏ biển vào tháng 7 hàng năm (chỉ số giám sát: độ phủ thảm cỏ biển, thành phần loài cỏ, mật độ sinh vật sống trong thảm cỏ biển); chương trình ghi chép sổ Nhật ký khai thác nghề cá được triển khai hàng tháng cho ngư dân Cù Lao Chàm (chỉ số: ngư trường, mùa vụ, sản lượng và kinh tế nghề cá).
Kết quả giám sát hàng năm của BQL cho thấy độ phủ trung bình RSH toàn vùng Cù Lao Chàm đang có dấu hiệu tăng từ năm 2013 đến nay, ở mức 42,02% tăng lên 50,97%. Tuy độ phủ RSH có sự gia tăng nhưng mật độ các loài sinh vật chỉ thị sống trong RSH ngày càng suy giảm, đặc biệt là các loài có giá trị kinh tế cao như: tôm hùm, trai tai tượng, cá chình, cá hồng, cá mú kích thước lớn (trên 30cm). Điều này cho thấy áp lực khai thác đang ngày càng gia tăng tại các vùng rạn và công tác quản lý chưa thực sự hiệu quả.
Hình 1. Diễn biến độ phủ RSH tại Cù Lao Chàm
Hình 2. Diễn biến mật độ nhóm cá kinh tế Cù Lao Chàm
Hình 3. Diễn biến mật độ nhóm động vật đáy Cù Lao Chàm
Hình 4. Diễn biến mật độ nhóm cá chỉ thị Cù Lao Chàm
Tương tự như hệ sinh thái RSH, các nguồn lợi sinh vật sống trong thảm cỏ biển cũng đang có xu hướng giảm dần. Đặc biệt là nhóm cá dìa hầu như ít phát hiện trong các đợt giám sát cỏ biển hàng năm của BQL. Cá dìa là loài ăn cỏ và rong đặc trưng, ngoài ra còn có giá trị kinh tế cao. Do đó sự suy giảm đáng kể loài này phản ảnh hiện trạng chất lượng cỏ biển đang diễn biến xấu và sự khai thác quá mức của ngư dân.
Hình 5. Diễn biến mật độ sinh vật sống trong thảm cỏ biển Cù Lao Chàm
Bên cạnh đó, BQL đã phối hợp với các cơ quan đơn vị có chuyên môn để điều tra, đánh giá đa dạng sinh học toàn vùng đối với các hệ sinh thái đặc trưng, quan trọng. Kết quả dự án “Điều tra và đề xuất giải pháp quản lý, sử dụng bền vững đối với tài nguyên đa dạng sinh học ở Khu dự trữ sinh quyển thế giới Cù Lao Chàm – Hội An” do Viện Hải dương học thực hiện từ năm 2015-2016 đã ghi nhận Khu sinh quyển Cù Lao Chàm – Hội An có 1667 loài thuộc 455 họ của 11 nhóm sinh vật chủ yếu và 533,4ha diện tích các hệ sinh thái tiêu biểu (gồm 356,4ha rạn san hô; 117ha rừng dừa nước tự nhiên; 43ha thảm cỏ biển ở khu vực hạ lưu sông Thu Bồn và 17ha thảm cỏ biển ở Cù Lao Chàm). Tuy nhiên, dưới áp lực phát triển kinh tế-xã hội và thay đổi về môi trường trong 12 năm qua (2004 – 2016), diện tích các hệ sinh thái tiêu biểu trong KSQ đã bị mất khoảng 112,5ha (gồm 77,1ha rừng dừa nước; 34,6ha thảm cỏ biển và 0,8ha rạn san hô), đặc biệt thảm cỏ biển tại Bãi Ông và Bãi Hương hầu như bị biến mất. Cấu trúc quần xã sinh vật rạn san hô bị thay đổi theo hướng giảm nhẹ cả về độ giàu có (1,2 lần) và phong phú loài (1,1 lần), nguồn lợi sinh vật rạn có giá trị chưa có dấu hiệu phục hồi.
Hình 6. Bản đồ phân bố bãi đẻ và ương giống của các nhóm nguồn lợi quan trọng trong KSQ
Hình 7. Ốc gai đẻ trứng ở Hòn Lá và Hòn Dài
Hình 8. Tổ trứng mực lá trên RSH ở Hòn Dài
Bắt đầu từ năm 2018, BQL phối hợp với Viện Sinh học Nhiệt đới TP.HCM triển khai điều tra, nghiên cứu đa dạng sinh học hệ rong biển tại Cù Lao Chàm. Kết quả khảo sát ban đầu năm 2018 tại các khu vực Tây Hòn Tai, Bãi Hương, Bãi Bắc, Hòn Lá đã ghi nhận được 39 loài rong, trong đó có khoảng 10 loài có sinh lượng khá lớn và đồng thời cũng là các loài rong có vai trò sinh thái quan trọng.
Hình 9. Quần thể rong Sargassum (Rong mơ)
Hình 10. Quần thể rong Turbinaria (cùi bắp)
Hình 11. Quần thể rong Lobophora
Hình 12. Quần thể rong Pandina
Tiếp nhận nhiệm vụ nghiên cứu, bảo tồn đa dạng sinh học rừng đặc dụng Cù Lao Chàm được UBND thành phố Hội An chính thức giao cho BQL Khu bảo tồn biển Cù Lao Chàm từ năm 2014, đến nay BQL đã phối hợp với Trung tâm bảo tồn đa dạng sinh học Nước Việt Xanh (GreenViet) thực hiện các đề án “Điều tra thành phần loài và xây dựng danh lục thực vật bậc cao trên cạn tại đảo Hòn Lao thuộc khu dự trữ sinh quyển thế giới Cù Lao Chàm, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam” (2017), “Nghiên cứu cấu trúc rừng và điều tra bổ sung thành phần loài thực vật bậc cao trên cạn trên các đảo thuộc Khu dự trữ sinh quyển thế giới Cù Lao Chàm – Hội An, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam” (2018) và “Điều tra thành phần loài và xây dựng cơ sở dữ liệu khu hệ thú trên các đảo thuộc Khu dữ trữ sinh quyển thế giới Cù Lao Chàm – Hội An, tỉnh Quảng Nam” (2018). Kết quả các đề án đến nay đã ghi nhận rừng đặc dụng Cù Lao Chàm có 500 loài thực vật thuộc 5 ngành, 50 bộ và 107 họ; 15 loài thú thuộc 6 bộ, 12 họ. Trong đó có 09 loài thực vật và 02 loài thú quý hiếm nằm trong danh lục nguy cấp và quý hiếm của Việt Nam và thế giới (IUCN). Ngoài ra, đề án còn phát hiện 02 loài Ráy có khả năng sẽ là loài mới cho khoa học và lần đầu tiên ghi nhận tại đảo Cù Lao Chàm và ghi nhận vùng phân bố mới của 01 loài Lan hoại sinh. Đề án cũng đã tạo lập và đưa vào sử dụng bộ mẫu tiêu bản trưng bày 80 loài thực vật rừng phổ biến của Cù Lao Chàm nhằm truyền thông cho cộng đồng và du khách.
Hình 13. Khỉ vàng (mục IIB-NĐ32CP/2006)
Hình 14. Tê tê Java (EN – SĐVN 2007)
Hình 15. Sâm cau, Cồ nốc lan, Ngải cau – Curculigo orchioides Gaertn (EN-SĐVN)
Đối với một số ĐTMT chưa có dữ liệu thông tin, BQL đã đăng ký thực hiện các đề tài khoa học nhằm điều tra hiện trạng ĐTMT, từ đó đưa ra những giải pháp quản lý, bảo vệ và phục hồi phù hợp. Thông qua kết quả đề tài “Điều tra thành phần loài, vùng phân bố, kích thước quần thể, hiện trạng khai thác và xây dựng giải pháp bảo vệ giống trai tai tượng (Tridacna) và bàn mai (Pinna) tại Khu bảo tồn biển Cù Lao Chàm” (2014-2016), năm 2018 BQL đã thực hiện chuyển vị thí điểm thành công 06 cá thể trai tai tượng từ các khu vực khác về vùng khoanh nuôi phục hồi tại Bãi Bắc nhằm gia tăng khả năng sinh sản, phục hồi trong tự nhiên của giống này. Một tổ cộng đồng khai thác và bảo vệ tôm hùm, ốc vú nàng tại Cù Lao Chàm được thành lập thông qua kết quả đề tài “Điều tra thành phần loài, phân bố sinh thái, hiện trạng khai thác và xây dựng mô hình đồng quản lý nguồn lợi tôm hùm, ốc vú nàng tại Cù Lao Chàm” (2011-2013). Đặc biệt, BQL đã ứng dụng thành công phương pháp phục hồi san hô cứng và chuyển vị rùa biển tại Cù Lao Chàm. Kết quả đề tài “Ứng dụng công nghệ phục hồi một số loài san hô cứng tại Khu bảo tồn biển Cù Lao Chàm có sự tham gia của cộng đồng” (2015 – 2017) đã xây dựng thành công 02 vườn ươm san hô với tổng diện tích 30m2 gồm 595 tập đoàn tại hai khu vực Bãi Bò, Bãi Nần và phục hồi 4000m2 gồm 2783 tập đoàn tại hai khu vực Bãi Bắc và Bãi Tra với tỉ lệ sống trung bình đạt 79,85%. Đề tài “Phục hồi và bảo tồn rùa biển (Cheloniidae) tại Khu bảo tồn biển Cù Lao Chàm” (2017 – 2019) bước đầu đã chuyển vị và ấp nở thành công 90% trứng rùa biển từ Côn Đảo về Cù Lao Chàm trong 2 năm 2017 và 2018.
Hình 16. Phục hồi Trai tai tượng
Hình 17. Phục hồi san hô
Ngoài ra, BQL cũng đã kêu gọi tài trợ từ các tổ chức quốc tế và thực hiện thành công các dự án này trong các lĩnh vực truyền thông nâng cao nhận thức, cải thiện sinh kế cho cộng đồng địa phương. Từ năm 2013 đến nay, Chương trình Rừng ngập mặn cho tương lai (MFF) đã tài trợ cho BQL thực hiện các dự án “Xây dựng cơ chế quản lý rạn san hô và thực hiện thí điểm phục hồi 2000m2 san hô cứng có sự tham gia của cộng đồng tại thôn Bãi Hương, Tân Hiệp, Hội An” (2013-2015); “Thí điểm mô hình hợp tác 4 nhà (nhà nước – nhà nông – nhà khoa học – nhà doanh nghiệp) trong hoạt động giám sát khai thác cua đá tại Cù Lao Chàm” (2014 – 2015); “Nâng cao khả năng phục hồi của các sinh kế cộng đồng và công tác quản lý thích ứng taị các khu bảo tồn biển địa phương của Việt Nam, từ hành động địa phương đóng góp tới mạng lưới quốc gia” (2013 – 2015); “Bảo tồn các đối tượng tài nguyên mục tiêu (Trai tai tượng, bàn mai, ốc vú nàng, bào ngư, tôm hùm) tại Khu bảo tồn biển Cù Lao Chàm” (2016 – 2017). Kết quả các dư án đã góp phần vào việc nâng cao nhận thức cho cộng đồng, học sinh và các bên liên quan trong việc bảo vệ và khai thác hợp lý nguồn lợi thủy sản, qua đó góp phần phát triển bền vững nguồn lợi, tạo sinh kế lâu dài cho cộng đồng địa phương thông qua phát triển du lịch sinh thái nhờ các hệ sinh thái được bảo vệ và phục hồi tốt. Các dự án cũng đã hướng tới trao quyền cho cộng đồng địa phương để nâng cao ý thức tự bảo vệ tài sản thiên nhiên mà họ đang có được. Điển hình như sự tham gia của cộng đồng Tiểu khu bảo tồn biển thôn Bãi Hương trong việc phục hồi san hô, tuần tra kiểm soát trên biển, truyền thông bảo vệ môi trường và nguồn lợi tự nhiên, xây dựng kế hoạch quản lý của Tiểu khu. Hay là sự tham gia của cộng đồng và các bên liên quan trong Tổ cộng đồng bảo vệ và khai thác bền vững cua đá Cù Lao Chàm trong việc khai thác đúng kích cỡ, mùa vụ và thực hiện dán nhãn sinh thái Cua đá. Tổ cộng đồng khai thác cua đá này cũng chính là kết quả của dự án “Cộng đồng tham gia phục hồi tự nhiên và khai thác bền vững Cua đá Cù Lao Chàm” do Quỹ Môi trường toàn cầu (GEF) tài trợ từ năm 2010 đến 2012.
Từ năm 2015 đến nay, Tổ chức bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN) cũng đã tài trợ cho BQL thực hiện dự án “Bảo tồn bãi đẻ của Rùa biển có sự tham gia của cộng đồng tại Khu bảo tồn biển Cù Lao Chàm”. Các hoạt động chính của dự án chủ yếu là truyền thông nâng cao nhận thức cho học sinh, cộng đồng, du khách, doanh nghiệp và các bên liên quan khác về tầm quan trọng của rùa biển và tác hại của túi nilon đến rùa biển; thảo luận các sinh kế thay thế nhằm chuyển đổi khai thác thủy sản bằng lưới ba lớp – đây là loại lưới mà rùa biển thường xuyên mắc phải và gây tử vong tại Cù Lao Chàm.
Thực hiện Biên bản ghi nhớ giữa UBND thành phố Hội An và Cơ quan Tài nguyên thủy sản Hàn Quốc (FIRA), BQL cũng đã tiếp nhận và thực hiện dự án “Phục hồi nguồn lợi tài nguyên bằng phương pháp rạn nhân tạo” (2018 – 2022). Dự án đã bước đầu triển khai khảo sát thực địa nhằm thu thập các thông tin về hải dương học, hiện trạng nguồn lợi hải sản để làm cơ sở xác định vị trí đặt rạn nhân tạo và chọn nguồn giống tái thả trong tự nhiên.
Kể từ khi thành lập cho đến khi được công nhận danh hiệu Khu dự trữ sinh quyển thế giới Cù Lao Chàm – Hội An đến nay, BQL Khu bảo tồn biển Cù Lao Chàm đã không ngừng nỗ lực nghiên cứu, thực hiện các chương trình, đề tài, dự án nhằm mục đích bảo vệ và phục hồi các hệ sinh thái, nguồn lợi tự nhiên, đặc biệt là nhóm ĐTMT tại Cù Lao Chàm. Mặc dù các kết quả nghiên cứu cho thấy phần lớn nhóm ĐTMT đang bị suy giảm nhưng nguyên nhân chủ yếu là do khai thác hải sản quá mức và trái phép bằng các nghề giã cào, lưới rê, lưới vây, pha súc,…đến từ các phương tiện ngoài địa phương; hoạt động của các cano du lịch tại các bãi biển gây xáo trộn nền đáy và phủ trầm tích lên RSH, thảm cỏ biển; việc xây dựng các công trình, cơ sở hạ tầng trên đảo phục vụ phát triển KT-XH làm giảm hơn 100ha rừng đặc dụng, mất và chia cắt sinh cảnh sống của một số loài, đặc biệt là Cua đá và gây ô nhiễm môi trường do trầm tích, vật liệu xây dựng bị rửa trôi; và sự phát triển du lịch thiếu bền vững.
Do vậy, trong thời gian đến BQL sẽ tập trung vào những chiến lược lâu dài trong công tác quy hoạch để đảm bảo duy trì và phục hồi các hệ sinh thái và nguồn lợi tự nhiên, đặc biệt là nhóm ĐTMT. Việc cần làm trước mắt là quy hoạch bãi đậu đỗ cano, đặc biệt tại khu vực Bãi Ông. Hoạt động du lịch cũng cần được điều chỉnh lại với định hướng du lịch sinh thái, nâng cao chất lượng dịch vụ, chọn lọc đối tượng khách. Các phân vùng của khu bảo tồn biển cũng cần được điều chỉnh sớm, đặc biệt là mở rộng diện tích vùng bảo vệ nghiêm ngặt để đảm bảo duy trì, và phục hồi hệ sinh thái RSH và thảm cỏ biển. Tăng cường hoạt động tuần tra, kiểm soát và có sự phối hợp chặt chẽ với các nhóm bảo tồn cộng đồng cũng là hoạt động được ưu tiên hàng đầu. Truyền thông nâng cao nhận thức cho cộng đồng, doanh nghiệp là giải pháp lâu dài và cần tăng cường, đổi mới về hình thức, chất lượng lẫn số lượng. Với những áp lực lên hệ sinh thái đến từ thượng nguồn, cần áp dụng các phương thức quản lý tổng hợp liên ngành liên vùng từ thượng nguồn đến hạ lưu sông Thu Bồn, trong đó nổi bật là quản lý rác thải, các công trình xây dựng trên lưu vực sông.
ThS. Trần Thị Phương Thảo – BQL KBTB CLC