Kết quả quan trắc hệ sinh thái thảm cỏ biển giai đoạn 2021-2025 tại Khu bảo tồn biển Cù Lao Chàm

56 lượt xem

Hệ sinh thái thảm cỏ biển đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sự ổn định và đa dạng sinh học của vùng biển ven bờ. Các thảm cỏ biển không chỉ là nơi cư trú, kiếm ăn và sinh sản của nhiều loài sinh vật biển, đặc biệt là các loài nguy cấp như rùa biển mà còn góp phần vào việc ổn định nền đáy, giảm xói mòn và đóng vai trò như bể chứa carbon sinh học hiệu quả trong bối cảnh biến đổi khí hậu.

Tại Khu bảo tồn biển Cù Lao Chàm, hệ sinh thái thảm cỏ biển từng phát triển phong phú với diện tích khoảng 50 ha năm 2004 (Võ Sĩ Tuấn và cs, 2004). Tuy nhiên, đến năm 2016, diện tích này đã suy giảm còn 17 ha (Nguyễn Văn Long và cs., 2017). Nguyên nhân chủ yếu đến từ tác động tổng hợp từ tự nhiên và nhân sinh.

Vì vậy, việc quan trắc định kỳ hệ sinh thái thảm cỏ biển là hoạt động thiết yếu nhằm theo dõi diễn biến và chất lượng sinh thái của thảm cỏ, từ đó cung cấp cơ sở khoa học cho việc đề xuất các giải pháp bảo tồn và phục hồi hiệu quả, kịp thời.

Kể từ năm 2016, BQL Khu bảo tồn biển Cù Lao Chàm đã bắt đầu thiết lập chương trình quan trắc hệ sinh thái thảm cỏ biển theo định kỳ hàng năm và dần hoàn thiện phương pháp, thời gian, địa điểm quan trắc. Đến nay, chương trình quan trắc thảm cỏ biển được thực hiện từ cuối tháng 6 đến đầu tháng 7 hàng năm, tại 7 trạm gồm: Bãi Bắc, Bãi Bìm, Bãi Ông, Bãi Xếp, Bãi Nần, Hòn Mồ, Bãi Hương. Sử dụng phương pháp lặn SCUBA và thiết lập 03 dây mặt cắt 50m tại mỗi trạm để đánh giá độ phủ, mật độ cỏ biển bằng các khung tiêu chuẩn 50cm x 50cm và 25cm x 25cm, đồng thời ghi nhận hiện trạng nguồn lợi sinh vật sống trong thảm .

Hình 1. Vị trí các trạm quan trắc thảm cỏ biển Cù Lao Chàm

Kết quả quan trắc ghi nhận trong số 14 loài cỏ biển tại Việt Nam (Nguyễn Văn Tiến và cs, 2004), chỉ có 4 loài xuất hiện tại Cù Lao Chàm, trong đó cỏ xoan (Halophila major) xuất hiện rải rác ở Bãi Bắc và Bãi Ông, cỏ xoan đơn (H. decipiens) xuất hiện chủ yếu tại Bãi Nần và Bãi Bìm, cỏ kim (Halodule pinifolia) xuất hiện chủ yếu tại Bãi Bắc và Bãi Bìm và cỏ kiệu tròn (Cymodocea rotundata) chiếm ưu thế tại Bãi Bắc và Bãi Xếp . Theo nghiên cứu của Võ Sĩ Tuấn và cộng sự năm 2004, ghi nhận 5 loài cỏ biển tại Cù Lao Chàm, tuy nhiên trong quá trình quan trắc đến nay chưa phát hiện loài Hẹ ba răng (Halodule uninervis).

Độ phủ trung bình toàn vùng giai đoạn 2021-2025 dao động từ 9,2% đến 14,55%. Trong đó độ phủ có sự gia tăng vào năm 2023 và 2024 lần lượt là 12,45% và 14,55% và suy giảm còn 10,26% vào năm 2025 (hình 2). Nguyên nhân của sự tăng giảm bất thường này là do sự xuất hiện rồi suy thoái một cách đột ngột của các thảm cỏ biển tại Hòn Mồ (2023) và Bãi Bìm (2024) (hình 3).

Hình 2. Diễn biến độ phủ thảm cỏ biển toàn vùng giai đoạn 2021-2025

Hình 3. Độ phủ cỏ biển tại các trạm khảo sát giai đoạn 2021 -2025

Trong giai đoạn này, Bãi Bắc và Bãi Xếp là hai khu vực có độ phủ cỏ biển duy trì ở mức ổn định, phản ánh điều kiện môi trường tại đây tương đối thuận lợi và ít chịu tác động từ các yếu tố gây xáo trộn. Bãi Bắc ghi nhận độ phủ cao nhất trong toàn khu vực khảo sát, dao động quanh mức 35%, với sự phân bố phong phú của các loài cỏ biển như cỏ kiệu tròn, cỏ xoan và cỏ kim. Trong khi đó, Bãi Xếp có độ phủ thấp hơn, dao động từ 15% đến 20%, chủ yếu là sự hiện diện của loài cỏ kiệu tròn.

Hình 4. Thảm cỏ biển tại Bãi Bắc, (Trần Thị Phương Thảo – Ngày 30/06/2025)
Sau Bãi Bắc, Bãi Nần có thể coi là khu vực có thảm cỏ lớn thứ hai tại Cù Lao Chàm. Tuy nhiên, trong giai đoạn 2021-2025 độ phủ tại khu vực này tăng giảm đột biến, trong đó độ phủ cao nhất vào năm 2021 và 2024 quanh mức 25% và giảm một nửa quanh mức 13% vào các năm 2022, 2023 và 2025 (hình 3). Tại đây, loài chiếm ưu thế là cỏ xoan đơn (Halophila decipiens) đây là loài có khả năng sinh trưởng rất nhanh, tuy nhiên lại chống chịu cực kỳ yếu đối với sự xáo trộn nền đáy (Williams, S.L. ,2007) do đó gây ra sự biến động bất thường về độ phủ tại khu vực này. Nghiên cứu trên của William S.L. ,2007 cũng chỉ ra loài này có khả năng phục hồi sinh khối nhanh chóng trong điều kiện nền đáy được tái ổn định, tạo ra cơ hội cho việc phục hồi cỏ biển trong thời gian tới. Trong quá trình quan trắc, đội quan trắc phát hiện tại đây có hiện tượng phủ trầm tích dày 5–10cm và tảo bám/bám nhớt phát triển mạnh bao phủ lá cỏ biển làm cản trở quang hợp và sinh trưởng gây nguy cơ suy thoái nếu không có biện pháp bảo vệ kịp thời (hình 5&6).

Hình 5. Hiện tượng phủ trầm tích tại Bãi Nần

Hình 6. Hiện tượng tảo bám/bám nhớt tại Bãi Nần

(Trần Thị Phương Thảo – Ngày 01/07/2025)

Bãi Bìm và Hòn Mồ là hai trạm ghi nhận sự biến động bất thường nhất về sự xuất hiện và độ phủ của thảm cỏ biển trong giai đoạn này. Tại Hòn Mồ, cỏ biển chỉ được ghi nhận vào các năm 2021 và 2023 với độ phủ duy trì quanh mức 15%, trong khi các năm còn lại hoàn toàn không ghi nhận sự hiện diện của cỏ biển. Ngược lại, tại Bãi Bìm, độ phủ cỏ biển đạt mức gần 30% trong năm 2024 nhưng lại giảm đột ngột xuống chỉ còn 2% vào năm 2025 (hình 3).

Sự gia tăng và suy giảm đột ngột này phản ánh tính không ổn định của điều kiện môi trường nền đáy tại hai khu vực trên, đồng thời cho thấy các thảm cỏ biển ở đây có thể đang chịu ảnh hưởng từ các yếu tố bất lợi như biến động dòng chảy, lắng đọng trầm tích, ô nhiễm cục bộ, hoặc tác động từ con người (neo đậu tàu thuyền, khai thác ven bờ…). Việc cỏ biển xuất hiện không liên tục cũng gợi ý rằng đây có thể là các khu vực biên giới sinh thái – nơi điều kiện sống không đủ ổn định để duy trì thảm cỏ lâu dài – và do đó cần được theo dõi định kỳ để đánh giá khả năng phục hồi tự nhiên hoặc đề xuất các biện pháp quản lý phù hợp.

Hình 7. Thảm cỏ biển tại Bãi Bìm, (Trần Thị Phương Thảo – Ngày 01/07/2025)

Bãi Ông và Bãi Hương tiếp tục ghi nhận độ phủ cỏ biển ở mức rất thấp, gần như không có dấu hiệu phục hồi đáng kể trong giai đoạn này. Đây là hai khu vực có cường độ hoạt động kinh tế, xã hội và du lịch cao nhất trong toàn vùng, với sự hiện diện dày đặc của tàu thuyền, dịch vụ du lịch, xả thải sinh hoạt và các tác động từ con người diễn ra liên tục trong nhiều năm. Việc tích lũy lâu dài các yếu tố gây áp lực môi trường đã làm suy giảm nghiêm trọng điều kiện sinh thái nền đáy, khiến hệ sinh thái cỏ biển tại đây gần như không còn khả năng tái sinh tự nhiên.

Hình 8. Sự ảnh hưởng của rác thải và sự xáo trộn nền đáy tại Bãi Ông, (Trần Thị Phương Thảo – Ngày 30/06/2025)

Trong số các loài sinh vật sống trong thảm cỏ biển, bàn mai (Pinna sp.) là loài có xu hướng gia tăng mật độ theo thời gian – được xem là tín hiệu khả quan về điều kiện phục hồi. Tuy nhiên, một số loài có giá trị sinh thái khác như cá dìa, ghẹ, ốc nhảy, nhum sọ vẫn chưa ghi nhận mật độ đáng kể, cho thấy phục hồi hệ sinh thái cỏ biển vẫn còn thiếu cân bằng.

Hình 9. Diễn biến mật độ bàn mai tại thảm cỏ biển theo thời gian

Trong giai đoạn 2021–2025, hệ sinh thái cỏ biển tại Khu bảo tồn biển Cù Lao Chàm cho thấy dấu hiệu suy thoái đáng lo ngại, đặt ra yêu cầu cấp thiết về các biện pháp can thiệp kịp thời thông qua quản lý tổng hợp, giảm thiểu tác động và phục hồi sinh cảnh. Tuy nhiên, một số khu vực vẫn ghi nhận tín hiệu tích cực về độ phủ và mật độ sinh vật, cho thấy tiềm năng phục hồi vẫn tồn tại nếu được định hướng quản lý đúng đắn. Việc duy trì giám sát định kỳ, kết hợp đồng bộ giữa bảo vệ, phục hồi và quản lý hiệu quả là yếu tố then chốt để bảo đảm sự phát triển bền vững của thảm cỏ biển Cù Lao Chàm trong tương lai.

Đoàn Nguyên Luân và Trần Thị Phương Thảo – BQL KBTB Cù Lao Chàm