Tóm tắt
Bào ngư là một loại hải sản có giá trị dinh dưỡng cao, được nhiều người biết đến như là loại thực phẩm bổ dưỡng. Ngoài ra, do cấu tạo vỏ có tầng xà cừ óng ánh với nhiều màu sắc, nên bào ngư còn được sử dụng làm đồ trang sức, khảm xà cừ trong kỹ nghệ tranh sơn mài. Bào ngư phân bố hầu hết ven các đảo của Cù Lao Chàm và là loại đặc sản ưa chuộng của du khách đang bị khai thác quá mức trong những năm qua và hiện nay. Bài báo phản ảnh hiện trạng và các giải pháp khai thác, sử dụng hợp lí nguồn lợi bào ngư này tại địa phương. Đồng thời thành phần loài, phân bố theo các đặc điểm sinh thái của bào ngư tại Cù Lao Chàm cũng được đề cập.
Abstract
Abalone is high nutritional value seafood, which is well known as nutritious foods. In additional, colorful iridescent nacre layer structured abalone shell is used as jewelry, pearl inlaid in the lacquer industry. Abalone is distributed in the coast along most Cham islands, is tourists favored specialty, but is recently being overexploited. The paper indicated the exploiting status and proposed solutions for Abalone resource reasonable exploitation and use as well as addressed species composition and their ecological distribution in the Cham islands waters.
1. Đặt vấn đề
Bào ngư thuộc động vật nhuyễn thể một mảnh vỏ, di chuyển bằng chân bụng. Trên thế giới có khoảng 100 loài bào ngư, trong đó có 10 loài có giá trị kinh tế [7]. Việt Nam có 4 loài bao gồm bào ngư chín lỗ (Haliotis diversicolor Reeve, 1864), bào ngư bầu dục (Haliotis ovina Gmelin, 1791), bào ngư vành tai (Haliotis asinina Linne, 1758) và bào ngư dài (Haliotis varia Linne, 1758) [1]. Trong 4 loài loài bào ngư phân bố ở Việt Nam, vùng biển Quảng Nam xuất hiện 3 loài là bào ngư bầu dục (Haliotis ovina Gmelin, 1791), bào ngư vành tai (Haliotis asinina Linne, 1758) và bào ngư dài (Haliotis varia Linne, 1758) [2]. Thịt bào ngư mềm, mùi vị thơm ngon, có hàm lượng Protein cao (23 – 24%) [6]. Bào ngư là thực phẩm ưa chuộng của du khách vì vậy đã và đang bị khai thác quá mức tại vùng biển Cù Lao Chàm. Trước tình hình đó, việc nghiên cứu đưa ra các giải pháp khai thác và sử dụng hợp lý nguồn lợi bào ngư tại Cù Lao Chàm là vấn đề hết sức cấp thiết hiện nay, góp phần bảo vệ và phát triển hiệu quả nguồn lợi bào ngư trong tự nhiên.
2. Dữ liệu và phương pháp nghiên cứu
Dữ liệu thứ cấp:
Dữ liệu thứ cấp được thu thập qua các tài liệu, báo cáo khoa học, công trình nghiên cứu có liên quan trực tiếp đến bào ngư và quá trình khai thác, sử dụng cũng như những tác động đến tài nguyên này tại Cù Lao Chàm.
Dữ liệu sơ cấp:
Dữ liệu sơ cấp bao gồm nguồn tri thức địa phương, thông tin thu thập từ thực địa và đo đạc từ sản lượng khai thác hàng ngày của người ngư dân. Nguồn dữ liệu này được thu thập theo các phương pháp sau:
Bảng hỏi với số lượng được tính theo công thức:
![]() |
(Nguồn: Nancy J. Helen F. Clair E, 2004, trích bởi Chu Mạnh Trinh, 2011)
Phỏng vấn sâu các ngư dân có nhiều kinh nghiệm, thâm niên nghề nghiệp, hiểu biết sâu về đối tượng nghiên cứu và lãnh đạo, chuyên gia của các tổ chức có liên quan tại địa phương.
Đo đạc kích thước cá thể, sản lượng bào ngư khai thác hàng ngày.
Nghiên cứu thực địa với GPS map 76CS x. 2010;
Mẫu vật được thu theo ô tiêu chuẩn 1m2 (1m x 1m) [10].
Mẫu vật được rửa sạch bằng cồn 70%, lưu giữ trong bình nhựa và xử lý bằng cồn 75%. Mẫu vật được phân loại theo bộ khóa (J.E. Poutiers, 1998) và (R.Tucker Abbott & S.Peter Dance, 1986) [10,11].
Mẫu vật được kiểm chứng tại phòng thí nghiệm của Viện sinh học nhiệt đới thành phố Hồ Chí Minh.
Hướng phân tích:
Microsoft Excell được sử dụng để xử lý số liệu, vẽ đồ thị và thực hiện các phân tích thống kê. Đồng thời ArcGIS/MapInfo được sử dụng để xây dựng bản đồ phân bố bào ngư tại Cù Lao Chàm.
3. Kết quả nghiên cứu
Các loài bào ngư có mặt tại Cù Lao Chàm
Qua 03 đợt khảo sát thu thập mẫu ở Cù Lao Chàm từ tháng 3 đến tháng 9 năm 2014 chỉ ghi nhận được 2 trong 3 loài bào ngư có mặt ở Cù Lao Chàm, bao gồm: bào ngư bầu dục (Haliotis ovina Gmelin, 1791) và bào ngư dài (Haliotis varia Linne, 1758). Trong 2 loài bào ngư đã xác định thì loài bào ngư bầu dục nằm trong danh lục đỏ Việt Nam đang trong tình trạng có nguy cơ tuyệt chủng lớn (VU). Đối với loài bào ngư vành tai (Haliotis asinina Linne, 1758), trong suốt thời gian nghiên cứu không bắt gặp cá thể nào.
Hình 1: Các mẫu vật bào ngư thu thập được tại Cù Lao Chàm
Hình 2: Thu mẫu bào ngư ngoài thực địa
Vùng phân bố
Bào ngư ở vùng biển Cù Lao Chàm phân bố hầu hết ven các đảo. Chúng thường sống bám ở san hô hay kẻ đá của các rạn đá tảng nhô ra biển nơi nước trong, sóng vỗ, độ mặn ổn định và độ oxy hòa tan cao.
Hình 3: Bản đồ phân bố bào ngư bầu dục Haliotis ovina Gmelin, 1791) ở Cù Lao Chàm, năm 2014.
Hình 4: Bản đồ phân bố bào ngư dài (Haliotis varia Linne, 1758) ở Cù Lao Chàm, năm 2014.
Hiện trạng khai thác và tiêu thụ
Ngư dân Cù Lao Chàm nhận định từ tháng 3 đến tháng 5 bào ngư xuất hiện với mật độ cao nhất và từ tháng 9 đến tháng 12 bào ngư xuất hiện với mật độ rất thấp. Trong 2 loài bào ngư đã xác định ở Cù Lao Chàm thì chỉ có loài bào ngư dài (Haliotis varia Linne, 1758) được tìm thấy khá phổ biến và cung cấp sản lượng vào khoảng 5.327,5 kg/năm, chiếm tỉ lệ 83,49% tổng sản lượng bào ngư được khai thác tại Cù Lao Chàm. Loài bào ngư bầu dục (Haliotis ovina Gmelin, 1791) đang đứng trước nguy cơ cạn kiệt về số lượng do áp lực khai thác quá mức.
Hình 5: Diễn biến sản lượng khai thác bào ngư từ tháng 3 đến tháng 9 năm 2014
Mùa vụ khai thác chính bào ngư của ngư dân Cù Lao Chàm tập trung từ tháng 3 đến tháng 8. Đây cũng là mùa khách du lịch đến tham quan và sử dụng thực phẩm bào ngư tại Cù Lao Chàm. Trong mùa khai thác chính, trung bình 1 người thợ lặn hoạt động 17,2 ngày/tháng, có thời điểm cường độ hoạt động lên đến 25 ngày/tháng.
Hình 6: Diễn biến số lượt khách đến Cù Lao Chàm từ tháng 1 tháng 9 năm 2014
Bào ngư khai thác tại Cù Lao Chàm được tiêu thụ dưới nhiều hình thác khác nhau, chủ yếu là phục vụ cho nhu cầu của du khách, trong đó phần lớn là phân phối trực tiếp cho các đầu nậu hoặc các nhà hàng tại Cù Lao Chàm.
Hình 7: Thị trường tiêu thụ bào ngư tại Cù Lao Chàm
Đối với bào ngư bầu dục (Haliotis ovina Gmelin, 1791), nhóm kích thước ưu thế được khai thác là 45-65mm (chiếm 64,8%) và tỉ lệ thấp nhất (12,8%) là nhóm kích thước nhỏ hơn 45mm.
Hình 8: Tỷ lệ phần trăm bào ngư bầu dục (Haliotis ovina Gmelin, 1791) khai thác theo nhóm kích thước.
Trong khi đó đối với bào ngư dài (Haliotis varia Linne, 1758), nhóm kích thước khai thác ưu thế là 35-48mm (chiếm 55,20%) và nhóm có tỉ lệ thấp nhất (15,80%) là có kích thước lớn hơn 48 mm. Tỉ lệ các nhóm kích thước được khai thác đối với bào ngư dài được thể hiện trong hình.
Hình 9: Tỷ lệ % bào ngư dài (Haliotis varia Linne, 1758) được khai thác theo nhóm kích thước cá thể
4. Kết luận và kiến nghị
Kết luận
Nghiên cứu từ tháng 3 đến tháng 9 năm 2014 đã tìm thấy được ở vùng biển Cù Lao Chàm hiện có 2 loài bào ngư gồm bào ngư bầu dục (Haliotis ovina Gmelin, 1791) và bào ngư dài (Haliotis varia Linne, 1758). Trong 2 loài bào ngư được ghi nhận thì loài bào ngư bầu dục (Haliotis ovina Gmelin, 1791) hiện nằm trong Danh lục đỏ Việt Nam 2007 đang trong tình trạng nguy cấp (VU).
Đối với loài bào ngư vành tai (Haliotis asinina Linne, 1758), trong suốt thời gian nghiên cứu, không bắt gặp cá thể nào. Bào ngư ở vùng biển Cù Lao Chàm phân bố hầu hết ven các đảo. Chúng thường sống bám ở san hô hay kẻ đá của các rạn đá tảng nhô ra biển nơi nước trong, sóng vỗ, độ mặn ổn định (30,2 ‰) và độ oxy hòa tan cao (4,92 ppm).
Ngư dân Cù Lao Chàm nhận định từ tháng 3 đến tháng 5 bào ngư xuất hiện với mật độ cao nhất và từ tháng 9 đến tháng 12 bào ngư xuất hiện với mật độ rất thấp.
Trong 2 loài bào ngư đã xác định ở Cù Lao Chàm thì chỉ có loài bào ngư dài (Haliotis varia Linne, 1758) phân bố với mật độ trung bình cao (3,7 cá thể/m2) và cung cấp sản lượng vào khoảng 5327,5 kg/năm, chiếm tỉ lệ 83,49% tổng sản lượng bào ngư được khai thác tại Cù Lao Chàm. Loài bào ngư bầu dục (Haliotis ovina Gmelin, 1791) có mật độ phân bố trung bình thấp hơn nhiều so với bào ngư dài (1,1 cá thể/m2), vì vậy cung cấp sản lượng thấp, với 1053,5kg/năm.
Mùa vụ khai thác bào ngư của ngư dân Cù Lao Chàm tập trung từ tháng 3 đến tháng 8. Đây là mùa khách du lịch đến tham quan và sử dụng thực phẩm bào ngư tại Cù Lao Chàm. Trong mùa khai thác chính, trung bình 1 người thợ lặn hoạt động 17,2 ngày/tháng, có thời điểm cường độ hoạt động lên đến 25 ngày/tháng.
Hiện tại, kích thước bào ngư bầu dục được khai thác dao động từ 29 mm đến 84 mm, trong đó nhóm chiếm ưu thế có kích thước từ 45mm đến 65mm. Kích thước bào ngư dài được khai thác dao động từ 23mm đến 60mm, trong đó nhóm chiếm ưu thế có kích thước từ 35mm đến 48mm.
Bào ngư khai thác tại Cù Lao Chàm được tiêu thụ dưới nhiều hình thác khác nhau, chủ yếu là phục vụ cho nhu cầu của du khách. Trong đó phần lớn là phân phối trực tiếp cho các đầu nậu hoặc các nhà hàng tại Cù Lao Chàm.
Giá trị kinh tế thu được (không kể giá trị tăng thêm) từ hoạt động khai thác bào ngư tại Cù Lao Chàm là rất lớn. Ước tính thu nhập bình quân đầu người từ hoạt động khai thác bào ngư trong năm 2014 của ngư dân khai thác là khoảng 70 triệu đồng/người/năm.
Kiến nghị
Theo Bộ NN&PTNT đã xác định từ năm 2008, loài bào ngư vành tai (Haliotis asinina Linne, 1758 tại vùng biển Cù Lao Chàm là loài có nguy cơ bị tuyệt chủng lớn, và trong suốt thời gian từ tháng 3 đến tháng 9 năm 2014, nghiên cứu không bắt gặp cá thể bào ngư vành tai nào. Điều này cho thấy mức độ suy giảm nghiêm trọng đối với loài bào ngư này trong tự nhiên. Để phục hồi và bảo tồn loài bào ngư vành tai ở Cù Lao Chàm, cần nghiên cứu giải pháp bảo tồn nguồn gen đối với loài bào ngư này. Ngoài ra cần lặp lại nghiên cứu về bào ngư vành tai trong thời gian tới để xác định chính xác loài này có còn trong Khu bảo tồn biển Cù Lao Chàm hay không.
Trước mắt, cần quản lý việc khai thác bào ngư trên cơ sở mùa vụ sinh sản và kích thước sinh dục lần đầu của bào ngư.
(i) Đối với bào ngư bầu dục (Haliotis ovina Gmelin, 1791), cần cấm khai thác trong tháng 3-4 và tháng 8, vì đây là thời gian đẻ rộ của chúng. Kích thước bào ngư bầu dục được phép khai thác phải lớn hơn 44mm, vì đây là kích thước sinh dục lần đầu của bào ngư bầu dục.
(ii) Đối với bào ngư dài (Haliotis varia Linne, 1758), cần cấm khai thác trong tháng 4-5 và tháng 8. Kích thước bào ngư dài được phép khai thác phải lớn hơn 34 mm.
(iii) Đối với bào ngư vành tai (Haliotis asinina Linne, 1758, cần cấm khai thác loài này trong khu bảo tồn.
Trong thời gian tới cần có các nghiên cứu về tác động của các yếu tố môi trường đến hoạt động sống của bào ngư, nghiên cứu về giá trị tăng thêm từ nguồn lợi bào ngư khai thác được ở Cù Lao Chàm khi mà lượng du khách đến với đảo đã đạt con số trên 200.000 lượt/năm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Nguyễn Chính (2005), Động vật thủy sản thân mềm thường gặp ở Việt Nam, NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội, 112tr.
[2] Nguyễn Văn Chung (2000), Nghiên cứu đặc điểm sinh học loài bào ngư bầu dục, Báo cáo khoa học hội nghị Sinh học quốc gia.
[3] Danh lục đỏ Việt Nam (2007), Nhà xuất bản Khoa học tự nhiên Hà Nội.
[4] Lê Đức Minh (2000), Nghiên cứu đặc điểm sinh sản của bào ngư (Haliotis) ở vùng biển Nha Trang – Khánh Hòa, Luận án tiến sĩ Khoa học, Viện Hải Dương Học, Nha Trang.
[5] Chu Mạnh Trinh (2011), Xây dựng mô hình đồng quản lý tài nguyên tại Khu bảo tồn biển Cù Lao Chàm, Hội An, Luận án tiến sỹ, Đại học KHXHNV thành phố Hồ Chí Minh.
[6] Capinpin Jr, E. C. et al. (1995), Spawning and Larval Development of a Tropical Abalone Haliotis asinina, The Philippine Journal of Science, Vol. 124, No.3: 215-232.
[7] Cox, KW. (1960), Review of the abalone in California, Calif. Fish and Game 46:381-406.
[8] Mc Namara, D. C. and C. R. (1995), Growth of the Ass’s Ear abablone (Haliotis asinina Linne) on Heron Reef, Tropical Eastern Australia, Mar. Fresh-Water Res., 46: 571-574.
[9] Poutiers, J. E. (1998), In: K.E. Carpenter, VH. Niem (eds.), FAO species identification guide for fisheries purposes, The living marine Resources of the Western Central Pacific, Volume I. Seaweeds, corals, bivalves and gastropods. pp. 123-686, Food and Agriculture Organization of the United Nations, Rome, ISBN 92-5-104051-6.
[10] Rigby, P. R., Iken, K. and Shirayama, Y. (2007), Smpling biodiversity in Coastal Communities-NaGISA Protocols for seagrassand Macroalgal Habitats, Kyoto University, Japan.
[11] R.Tucker Abbott & S.Peter Dance, 1986. Compendium of Seashells – A full Color Guide to More than 4,200 of the World’s Marine Shells, American Malacologists, Inc.
Dương Thị Thu Đông, Khoa Sinh – Môi trường, Đại học Sư phạm Đà Nẵng
Chu Mạnh Trinh, Khu Bảo tồn biển Cù Lao Chàm, Quảng Nam